Kiến nghị thay đổi cơ cấu đầu tư cho giáo dục, ưu tiên giáo dục miền núi, DTTS

05:11, 06/11/2017

Theo báo cáo của Vụ Giáo dục dân tộc, Bộ GDĐT, trong 5 năm thực hiện đề án phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người theo Quyết định 2123/QĐ-TTg, đã có 13.655 lượt trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước với tổng kinh phí hơn 110 tỷ đồng...

Theo báo cáo của Vụ Giáo dục dân tộc, Bộ GDĐT, trong 5 năm thực hiện đề án phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người theo Quyết định 2123/QĐ-TTg, đã có 13.655 lượt trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước với tổng kinh phí hơn 110 tỷ đồng. Tuy nhiên, quá trình triển khai đề án cho thấy mặc dù cơ sở vật chất đã được đầu tư xây dựng, nhưng so với nhu cầu, điều kiện tối thiểu, nhiều điểm trường ở vùng sâu, vùng xa chưa bảo đảm, việc bảo đảm quyền bình đẳng trong giáo dục đối với các dân tộc thiểu số vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc. Là ĐBQH của một tỉnh nằm trong vùng trọng điểm Tây Nguyên, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, PGS TS Triệu Thế Hùng đã có ý kiến phát biểu:
 
Thứ nhất, với nhiều dân tộc thiểu số, muốn nói được tiếng phổ thông, học sinh phải học gần như đối với học một ngoại ngữ. Khoản 2 điều 7 Luật Giáo dục hiện hành quy định rõ “Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác”, căn cứ quy định này, tôi đề nghị trong chương trình giáo dục phổ thông không nên ép học sinh phải thông thạo tiếng Việt phổ thông ngay từ đầu cấp học phổ thông mà cần tổ chức dạy bằng tiếng dân tộc. Các tài liệu, sách giáo khoa cũng phải được thể hiện cả bằng tiếng dân tộc. Tiếng phổ thông cần được xem là một môn học trong chương trình để khi tốt nghiệp phổ thông các em có thể thành thạo tiếng phổ thông và tiếp tục học lên ở những cấp học cao hơn hoặc tham gia các hoạt động lao động xã hội.  
 
Thứ hai, trong thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cần xem xét lại cách thức ưu tiên cho DTTS, miền núi và cho các đối tượng chính sách nói chung trong khi trình độ học vấn giữa học sinh miền xuôi với học sinh miền núi, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số còn có sự chênh lệch, chúng ta lại dùng chính sách cộng nhiều điểm như một sự ưu tiên. Thực tế cộng nhiều điểm không làm thay đổi trình độ của học sinh mà ngược lại, tiếp tục tạo nên sự chênh lệch về trình độ, tạo nên cơ chế đánh giá sai lệch và thực tế là chấp nhận sự yếu kém của những học sinh được ưu tiên kiểu này. Đề nghị Chính phủ xem xét lại có nên duy trì các hình thức ưu tiên bằng cách cộng nhiều điểm hoặc tuyển thẳng không qua kỳ thi nữa không? mà nên thay vào đó là đầu tư để tập trung bồi dưỡng, phụ đạo kiến thức, điều động các thầy cô giáo giỏi và có phương pháp sư phạm phù hợp, tập trung đầu tư trường lớp và cơ sở vật chất, thực hiện các hoạt động tư vấn hướng nghiệp để đẩy mạnh việc phân luồng để các em học sinh có thực lực đáp ứng thực sự các nhu cầu và yêu cầu về trình độ đào tạo mà không cần cộng điểm.
 
Thứ ba: Để thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục phổ thông tại các địa bàn DTTS, miền núi thì cần có chính sách ưu tiên đặc biệt hơn nữa đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Hiện nay việc thu hút vào ngành sư phạm đã khó khăn, việc chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên giảng dạy tại các vùng DTTS, miền núi sẽ lại càng khó khăn hơn. Cùng với chính sách đào tạo giáo viên người dân tộc thiểu số và thực hiện chính sách ưu đãi thu hút lực lượng giáo viên người miền xuôi có tâm huyết bám bản, bám trường. Đặc biệt, tôi đề nghị khẩn thiết, cần có chiến lược và chính sách phục hưng truyền thống dân tộc về quý trọng, tôn vinh nghề dạy học, thực sự coi nghề dạy học là “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Lao động của nhà giáo là lao động trí tuệ của giới trí thức, vì vậy cần rất coi trọng đời sống tinh thần chứ không chỉ là ưu tiên về chế độ vật chất. Nếu không thực sự coi trọng giá trị của người thầy thì chương trình giáo dục phổ thông dù hay đến mấy, cơ sở vật chất có tốt đến mấy cũng khó thực hiện có kết quả. Vì nhà giáo có vai trò quyết định sự thành bại của sự nghiệp giáo dục.
 
Thứ tư, việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông với học sinh người dân tộc thiểu số cần quán xuyến được đến các dân tộc rất ít người. Điều này là hết sức cần thiết, bởi có những dân tộc thiểu số ở nước ta chỉ còn vài nghìn người, thậm chí vài trăm người. Ở Tây Nguyên, như dân tộc Brau: 313 người, Cống: 1.676 người, Cơ Lao: 1.865 người… Cùng với các chính sách khác, thì chỉ có giáo dục, chương trình giáo dục phù hợp, phương pháp giáo dục hiện đại mới đem tới cho họ phép màu để tồn tại và tiếp tục phát triển cùng cộng đồng các dân tộc anh em.  
 
Cử tri Tây Nguyên mong muốn chương trình giáo dục phổ thông phải thể hiện thực sự quyết tâm thay đổi cơ cấu đầu tư cho giáo dục, ưu tiên hàng đầu cho giáo dục miền núi, dân tộc thiểu số, thực sự đổi mới căn bản toàn diện giáo dục nước nhà với tinh thần của NQ29/TW và Hiến pháp 2013.
 
HÀ NGUYỆT (lược ghi)