
Trời sinh voi, sinh cỏ, sinh mơ mộng, tình yêu, và bao nhiêu là thứ khác.
Trời sinh voi, sinh cỏ, sinh mơ mộng, tình yêu, và bao nhiêu là thứ khác.
Rồi hai người phụ nữ này cũng miệt mài kiếm sống ở đây, bên hồ Sương Mai. Họ bám trụ hàng ngày. Chỗ họ bám lấy là phần mộ của một cặp đôi chết từ quá sáu mươi năm trước. Khi gọi đây là “Đồi thông hai mộ” hẳn phải chấp nhận làm tổn thương đến bao mộ phần nằm chung xung quanh đây, những phận người khác - vì số phận nào cũng bình đẳng ở dương gian, khi mà có cả một nghĩa địa ở nơi này mà. Hàng ngày hai người phụ nữ lau chùi phần mộ liền lạc được gọi “Mệnh chung” của cặp đôi xấu số, lau chùi chỉn chu, kỹ đến độ bụi cũng không kịp đậu lại lâu, trong khi quanh đấy rất nhiều ngôi mộ nữa nhưng họ không làm gì cả, để mặc cỏ bụi, đổ nát, hoang tàn. Họ còn trồng hoa lên khu mộ đôi và hàng ngày luôn sắm hai bình hoa tươi để bên cạnh hai tấm bia đó. Mỗi tấm bia, một người trong họ tự kẻ chữ lên đó, nét chữ nghệch ngoạc, cảm tính, như theo ý mình, không giống bất cứ bia mộ nào trên đời và không tuân thủ qui chuẩn nào về bia mộ cả. Phần mộ còn được lát gạch ở phía trước cho tươm tất và du khách dễ chiêm vọng, vái lạy. Nói chung hai người họ xem mình như là chủ sở hữu phần mộ đôi này, nó thuộc về họ.
*
Hồ Than Thở quá nổi tiếng nhờ có hai phần mộ này, và nó càng quá nổi tiếng nhờ bài hát “Đồi thông hai mộ” của một nhạc sĩ phương xa viết về nó.
 |
Những bóng ngựa mơ màng trên rừng thông. Ảnh: N.H.Tình |
Có khách đến là hai người phụ nữ thay nhau mời du khách vô ngắm nhìn phần mộ “Mệnh chung”. Tôi cũng yêu quí thứ tình yêu trong sáng, lụy tình, quá đẹp của cặp đôi kia. Nhưng tôi không cho phép mình lụy vào cái nội dung mượt mộng dựng lên trong bài hát hay kia mà ở đó nhiều cái không trúng sự thật, hay nói khác là nó quá khác xa đi cái nội dung bản chất, nó chỉ có ít phần đúng và lắm phần trật lất mà người nào ở Đà Lạt cũng đều biết. Hai người phụ nữ này không quen biết, hay thân thích của nhau, ngoại trừ tự dưng gặp nhau bên khu mộ này khi tìm đến đây kiếm sống. Họ rất nghèo, giản dị, đơn sơ, đáng yêu, luôn giấu thân phận của mình. Dân tình quanh hồ Sương Mai xưa mà nay định danh thành hồ Than Thở này biết họ là một người bị chồng bỏ, từ dưới huyện Lâm Hà lên. Còn người kia là dân nghèo ngoại ô ở khu dân cư Nam Hồ nơi ngọn đồi tít bên kia hồ Than Thở lội sang. Một chị hàng ngày cuốc bộ đến đây. Còn chị kia thì thường dắt theo chiếc xe đạp cọc cạch, đi từ khu có dãy nhà trọ ở gần Học viện Lục quân Đà Lạt (trước 1975 gọi là “Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt”). Nghĩa là họ không có đất đai, vườn lơghim hay hoa, nghề nghiệp, và một gia đình đủ đầy hạnh phúc.
Phần đất có khu mộ đôi này nằm hoàn toàn tách biệt, lẻ loi so với lối chính du khách vào tham quan Khu Du lịch hồ Than Thở, dù phần diện tích đất này cũng được giao chung cho một dự án du lịch. Nghĩa rằng họ “chăm chui” phần mộ này chứ đơn vị quản lý cánh rừng này không trao cho họ cái quyền đó. Thậm chí còn có biển cảnh báo du khách tránh xa những trường hợp hoạt động chui như hai người phụ nữ này. Mà sự thật, hai người họ đã bị xua đuổi nhiều lần rồi, vì việc làm tự phát, kiếm sống của họ cũng có ảnh hưởng đến hình ảnh đơn vị du lịch này. Hai người họ lặng lẽ, bí ẩn bên khu mộ. Họ thui thủi kiếm ăn. Mà nghĩ ra được cách kiếm ăn, “môi trường” kiếm ăn kiểu này cũng là khác thường rồi. Thế này thì có thể khen mà cũng có thể chê trách, theo tùy góc độ nhìn của từng người.
Họ kiếm sống bằng cách, khi có ai bước vào cánh rừng buồn này họ sẽ thuyết giảng, giới thiệu huyên thuyên về cuộc tình của cặp đôi yêu nhau đoản mệnh, kể lai lịch của phần mộ mệnh chung. Họ học thuộc làu như trẻ thơ ở đâu đó qua loa lai lịch cóp nhặt trúng - trật không trọn, và một ngàn lần vẫn kể đúng chừng ấy chữ, không thiếu, không bớt đi chữ nào. Trạng thái và khẩu khí họ khi đọc kể ngây ngô, y chang một học sinh lớp hai lúc đọc bài, thuộc lòng chuyện trả bài cho cô giáo. Nhiều đoàn du khách nghe say sưa. Nhưng cũng lắm đoàn muốn cười lộn ruột trước cách đọc trẻ thơ, như nhập đồng của người đã lớn tuổi - họ đều ngoài năm mươi cả. Sinh kế của họ là hai nấm mồ, và họ sẽ bán nhang cho ai cần thắp cho đôi nam nữ đã khuất. Và họ cũng bán những gói trà Atisô, mứt dâu đặc sản Đà Lạt cho ai vừa được nghe họ kể để kiếm lời. Có khi du khách không mua gì cả, mà cho họ chút tiền thuyết minh. Tám giờ rưỡi sáng hàng ngày họ có mặt, và rời khỏi đây vào độ bốn rưỡi chiều. Họ gói theo cơm để ăn, và ngủ trưa bên cạnh khu mộ kia, ngủ trong mấy chiếc ghế salon thủng nát ai đó mang ra vứt bỏ ở đồi thông này.
*
Dưới bóng mưu sinh của họ là một cuộc tình đẹp trong quá khứ xa ở Đà Lạt. Đó là cuộc tình của một cô gái tên Thảo, và một chàng trai đến từ xứ Nam Bộ tên Tâm. Dân gian nói Thảo là giáo viên Trường Nữ trung học Bùi Thị Xuân ở Đà Lạt, và Tâm là học viên sĩ quan Trường Võ bị Đà Lạt. Lúc yêu nhau họ hay hẹn hò đưa nhau đi chơi ở hồ Sương Mai và hẹn ước sẽ cưới nhau. Nhưng sau đó Tâm vì gia đình ép uổng phải về cưới cô gái khác có gia đình tử tế hơn ở quê nhà. Thảo đã tự tử bên hồ Sương Mai vì nghĩ người yêu bội ước. Tâm không yêu người vợ bố mẹ cưới cho, vì lòng anh chỉ có mỗi Thảo. Khi Thảo tự tử, Tâm quay lại Đà Lạt và ra bên mộ người yêu tâm nguyện: “Nếu không chung được một mái nhà thì chết nhất định chung một nấm mồ!”. Sau đấy Tâm đã lao theo chiến tranh nhằm cho nhanh phai phôi nỗi niềm riêng, và lúc bị trọng thương sắp chết bày tỏ với đồng đội là cho anh được chết bên cạnh người yêu Thảo đã chôn bên hồ Sương Mai ở Đà Lạt. Đó là cuộc tình xót xa vang lừng. Hồ Sương Mai đã được thi ca hóa đổi tên thành hồ “Than Thở” từ sau cái chết trong cùng một năm của đôi thanh xuân. Cũng từ cái chết của họ, mà ngay sau đấy một nhạc sĩ đã rung động và viết nên một bài hát có tiết điệu dễ đi vào lòng người, Boléro, tên nó là “Đồi thông hai mộ”. Ông nhạc sĩ xa lạ người Bắc di cư tên Hồng Vân đó rồi cũng đi trong mờ mịt, nhưng bài hát kia thì còn mãi trên dương gian, nhất là thị dân ở các đô thị miền Nam cực mê thích, đặc biệt là người Đà Lạt. Nay khu mộ đôi dưới kia chỉ còn tro xác của Thảo chứ phần tro xác Tâm thì sau Một chín bảy lăm gia đình anh ở Vĩnh Long đã lên bốc đưa về bản quán dưới kia. Nghĩa là nơi đây, giờ chỉ còn phần mộ thật sự của Thảo, còn cái vỏ mộ phía bên Tâm là rỗng. “Rỗng”, không có nghĩa là hết thiêng, hết thi vị.
Dĩ nhiên tên gọi hồ nước nào mà chẳng xê dịch đổi qua đổi lại theo lịch sử, có dị bản nọ kia, nhưng hồ này thì định danh ổn định ở chữ “Than Thở”. Từ năm 1941, Tạp chí Indochine của Pháp, số ra ngày 13 tháng 3 đã từng chụp hình hồ nước đây làm bìa cho một kỳ đặc biệt về Đông Dương. Năm 1999 thì nó đã được Nhà nước xếp hạng thuộc Di tích thắng cảnh Lịch sử và Văn hóa quốc gia. Hồ Than Thở trở thành danh thắng du lịch, hàng ngày cùng góp phần hút khách tham quan cho một “Đà Lạt - Thiên đường du lịch”.
*
Cuộc tình của đôi nam nữ thuở nào đã cho họ, hai người phụ nữ nghèo cuộc sống, cơm áo. Chắc hẳn họ không hề muốn ngày xưa có hai cái chết trẻ đau lòng đó, sự xuất hiện của đôi mộ này. Nhưng giờ kiếm sống trên dư ba cuộc tình đó được thì kiếm sống cái đã. Mỗi ngày họ kiếm được từ ba chục ngàn đến hai trăm rưỡi ngàn tiền bán nhang, bán Atisô, và tiền bo cho việc thuyết minh quái gở của mình.
 |
Hằng ngày họ lau chùi đôi mộ “mệnh chung”. Ảnh: N.H.Tình |
Không biết do cái nghèo của họ quá thậm dày không, hay do vẻ nặng của cuộc tình kia, hay hương hồn nổi trôi của đôi nam nữ mà làm cho nét mặt của họ bao giờ cũng trông lỏng chùng, não nùng lắm. Họ kiếm được tiền ở đấy mà chẳng thấy họ vui, chưa khi nào tôi thấy họ cười. Họ làm “hướng dẫn viên” cho một khu mộ mà cứ như kẻ “ăn trộm” một cuộc tình. Nói điều này bởi họ luôn sợ bị “phát hiện”, bị bắt, dù không biết ai sẽ bắt, mà chắc chắn chẳng ai lại đi bắt một hành vi, sự kiếm ăn dễ thương, dễ ghét, vô tiền khoáng hậu này của họ cả đâu. Bao năm qua, tôi hay la cà cái hồ Tơnô Pang Đòng (tiếng Cill xưa)/ Lac des Soupirs (tiếng Pháp thời thuộc địa)/ Sương Mai/ Than Thở này. Và cứ ghé đây là nhìn vào chỗ họ, xem họ còn ở đó không. Ngay những khi đưa người yêu đi chơi khu rừng thông này chúng tôi cũng hay ngồi ở vị trí cách cái nghĩa địa nhỏ kia không xa, và để ý vẫn thấy họ có đang kiếm sống bên phần mộ đôi đó. Bởi cánh rừng này buồn, nhưng rất đẹp, cứ thơ mộng hoài, còn… rất “Đà Lạt”. Họ không nói lý do của nỗi hoang buồn trên mặt, nhưng có thể họ mặc cảm khi biến mộ thành sinh kế, sợ việc bán nhang, sợ việc thuyết giảng không trúng trật về đôi tình nhân kia.
Rồi lâu lâu tôi lại ghé thăm, hỏi họ cho vui, rằng đã thuộc bài hát “Đồi Thông Hai Mộ” chưa?! Họ vẫn thành thật là “Chưa thuộc!”, hoặc “Chỉ nghe nói có một bài hát như thế chứ không biết đến nó, không hát bao giờ!”. Tôi bảo họ sao không lên mạng tìm nó để biết, và hát cho thuộc đi, để khi du khách nhỡ bảo hát về nó thì còn hát được. Họ bảo họ không biết hát.
Tôi nhớ mãi họ bảo mình không biết hát.
Không phải ai sinh ra trên đời cũng biết hát. Và không phải cái chết nào cũng thành bài ca. Không phải nấm mộ nào cũng làm cho người đời thích.
Hai người phụ nữ đang hàng ngày “PR” cho một cuộc tình tro bụi, và quảng cáo một sản phẩm bên lề của du lịch Đà Lạt. Không biết họ có cảm ơn bài hát kia, ông nhạc sĩ tạo ra bài hát, và hai cái chết vì tình, hay hương hồn quá vãng của đôi nam nữ sống đẹp và tình yêu huyền mỹ đó không. Tha nhân cố hiểu thôi, con người khổ nhất là khi sống, đi kiếm ăn. Cho họ kiếm chút cơm áo mỗi ngày vậy, để đi nốt một kiếp người. Và những hương hồn bao phần mộ sầu xung quanh cũng đừng vì thế mà hẹp hòi, so bì, vì phần đôi mộ kia thậm dày oan trái, và đã lỡ vang danh. Sự xuất hiện của hai thực thể sống này suốt hai mươi năm nay thì cũng có khác chi thứ hơi thở: “Đời hợp tan như mây kia gặp gió”(*).
(*) là ca từ trong ca khúc nổi tiếng “Đồi Thông Hai Mộ”
Bút ký: NGUYỄN HÀNG TÌNH