
Lễ hội truyền thống Việt Nam là sự kiện văn hóa - tâm linh được tổ chức mang tính cộng đồng; là một trong những loại hình di sản độc đáo, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều đối tượng, nhiều người...
Lễ hội truyền thống Việt Nam là sự kiện văn hóa - tâm linh được tổ chức mang tính cộng đồng; là một trong những loại hình di sản độc đáo, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, thu hút sự quan tâm và tham gia của nhiều đối tượng, nhiều người. “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm hướng tới một đối tượng thiêng liêng, là tôn vinh những nhân vật có công đối với đất nước, với một vùng đất, một cộng đồng nào đó; qua đó thể hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Lễ hội chính là nơi hội tụ sức sống của dân tộc, sức sống của văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa để lại; là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người, giúp con người nhớ về nguồn cội, tìm về sự thiêng liêng, tạo sự cộng cảm với đời sống tâm linh và nhằm hướng tới một cuộc sống tốt lành mà trong hiện thực không phải lúc nào cũng gặp; đồng thời qua đó có thể củng cố thêm niềm tin vào cuộc sống.
 |
Lễ hội mưa mùa hạ. Ảnh: PVE |
Trong kho tàng văn hóa Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là một nét văn hóa rất đặc trưng; là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng nghìn năm đến nay vẫn được duy trì. Theo thống kê, vào năm 2009, cả nước có khoảng 7.966 lễ hội; trong đó, có khoảng 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%).
Hàng năm, sau Tết Nguyên đán, vào dịp tháng Giêng âm lịch, hàng loạt lễ hội đã được mở ra khắp nơi, từ lễ hội làng, lễ hội vùng rồi lễ hội quốc gia (nhất là các tỉnh miền Bắc). Có những lễ hội chỉ trong một ngày, hoặc vài ngày, thậm chí có lễ hội kéo dài hết cả mùa xuân (lễ hội Chùa Hương và lễ hội Yên Tử). Thực trạng của lễ hội trong mấy năm gần đây cho thấy có rất nhiều vấn đề cần phải bàn, nhiều vấn đề để lại phiền muộn, lo lắng trong xã hội!
Riêng Lâm Đồng, một tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống nên cũng có đến hàng chục lễ hội truyền thống. Tuy nhiên, hầu hết lễ hội truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Lâm Đồng có quy mô nhỏ lẻ, đơn giản; tầm ảnh hưởng, khả năng thu hút số lượng người tham gia còn ít và đang bị thu hẹp, mai một. Ngoài lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa được tổ chức chủ yếu theo chu kỳ sản xuất mùa vụ, còn một số lễ hội của các dân tộc từ nơi khác đến cũng được tổ chức nhưng có tính riêng lẻ và phạm vi nhỏ hẹp. Đặc biệt, trong nhiều năm gần đây, một số lễ hội truyền thống các dân tộc bản địa đã được sưu tầm, phục dựng và bảo tồn thông qua các chương trình, dự án văn hóa; hoặc được tiếp biến, tích hợp trong chương trình của các lễ hội hiện đại (Festival Hoa, Lễ hội Văn hóa Trà, Ngày hội các dân tộc…).
Những vấn đề đang tạo nên dư luận trái chiều, đó là ý nghĩa cũng như bản sắc tốt đẹp của lễ hội, có vẻ như ngày càng mờ nhạt và thay vào đó là nhận thức của đại bộ phận người dân đi lễ nhằm mục đích cầu tài cho bản thân, tìm sự hỗ trợ của thần thánh trong những toan tính vụ lợi… Người ta đến với lễ hội không phải bằng sự tôn kính linh thiêng như ngày xưa mà đến với lễ hội nhằm tìm kiếm, mặc cả với thần thánh bằng những mâm rượu thịt, những đồng tiền thật rải lên tượng Phật… cầu mong được phù hộ để thăng quan, tiến chức, phát tài, phát lộc; thậm chí cả buôn gian, bán lậu, làm ăn phi pháp được trót lọt. Do đó, đã gây nên sự lộn xộn, phản cảm, làm mất đi ý nghĩa cao đẹp của hoạt động văn hóa - tâm linh này. Nguyên nhân về thực trạng này có nhiều nhưng đáng chú ý nhất là: (1) Do người dân chưa hiểu thấu đáo giá trị truyền thống của lễ hội; (2) Các cơ quan chức năng, các nhà quản lý văn hóa chưa làm trọn trách nhiệm trong việc tuyên truyền, giáo dục một cách sâu sắc, đầy đủ; chưa đưa ra các định hướng, hướng dẫn cụ thể về tổ chức lễ hội, để mặc cho người dân đi vào lễ hội, tín ngưỡng một cách tự phát, u mê; (3) Nhưng điều lo ngại nhất là hiện tượng cầu cúng, mê tín dị đoan thường xuất hiện nhiều mỗi khi lòng người bất an, xã hội bất trắc, niềm tin của con người vào cuộc sống hiện thực suy giảm thì họ phải tìm kiếm niềm tin ở trong hoang đường…; (4) Thậm chí vì mục đích lợi nhuận, lấy danh nghĩa quảng bá du lịch mà các cơ quan chức năng, các nhà tổ chức đã lợi dụng những giá trị truyền thống để cổ súy cho những suy nghĩ lệch lạc, sự mê tín của dân chúng.
Vấn đề đặt ra là làm sao tổ chức các lễ hội truyền thống vừa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, vừa giữ gìn, phát huy những tinh hoa văn hóa, các yếu tố tích cực mà lễ hội mang lại; đặc biệt, thông qua lễ hội để thu hút khách du lịch, trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách; đồng thời xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, ngăn chặn lợi dụng lễ hội vì mục đích kinh doanh trái phép, qua đó góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bảo vệ an ninh, bảo vệ môi trường...
Từ thực tiễn của lễ hội hiện nay, để bảo tồn, phát huy lễ hội văn hóa truyền thống gắn với các lễ hội văn hóa hiện đại, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phải có những định hướng cơ bản về tổ chức, quản lý các hoạt động lễ hội. Đó là:
- Trước hết, cần tiến hành công tác sưu tầm, thống kê, nghiên cứu đánh giá, phân loại…làm cơ sở cho việc bảo tồn, phục dựng và phát huy lễ hội, khắc phục tình trạng thiếu chọn lọc như nhiều lễ hội hiện nay.
- Công tác phục dựng các lễ hội phải được sự chỉ đạo, hướng dẫn chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, các ngành chức năng, cơ quan chuyên môn nhằm đảm bảo vừa khơi dậy, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, vừa loại bỏ những hủ tục lạc hậu (cờ bạc, ăn uống rình rang, nghi thức cúng tế huyền bí).
- Việc bảo tồn - phát triển lễ hội truyền thống, khâu quan trọng nhất là phải có sự kết hợp hài hòa giữa phần gốc - lõi văn hóa (hồn, cốt) của lễ hội truyền thống, với phần được sáng tạo mới mẻ, độc đáo, hấp dẫn giới trẻ và phải phù hợp với cội nguồn không gian lịch sử và văn hóa của địa phương, dân tộc.
- Chủ thể, chủ nhân của lễ hội phải là người dân bản địa; phát huy vai trò của các nghệ nhân, người lớn tuổi, người có uy tín trong tổ chức lễ hội. Đồng thời huy động các dân tộc khác trên địa bàn, các vùng lân cận, khách du lịch tham gia; thông qua đó gắn kết cộng đồng, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
- Chú trọng công tác tuyên truyền, tiếp thị, vận động tài trợ và quảng bá rộng rãi nhằm đảm bảo được yêu cầu, mục đích của việc tổ chức lễ hội là bảo tồn, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; mở rộng giao lưu văn hóa và cuốn hút khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Một vấn đề không thể không đề cập là các cấp chính quyền cần quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, đầu tư chỉnh trang giao thông; chăm lo lực lượng nghệ nhân để khai thác vốn hiểu biết lễ hội truyền thống; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về lễ hội… Từ đó, thu hút đông đảo nhân dân tham gia phục hồi, bảo tồn và phát huy giá trị các lễ hội truyền thống trong phát triển du lịch.
KHÁNH LINH