
Trong những năm qua, từ việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thâm canh, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ phát triển sản xuất, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã tiếp cận được khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất...
Ông Lê Hữu Túc, Phó Chủ tịch UBND huyện Đơn Dương, đưa ra nhận xét khái quát: “Đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Đơn Dương sống chủ yếu bằng nông nghiệp như sản xuất lúa, bắp, rau, chăn nuôi bò... Trong những năm qua, từ việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thâm canh, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, chuyển giao khoa học kỹ thuật, hỗ trợ phát triển sản xuất, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số đã tiếp cận được khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất, đặc biệt là sản xuất rau thương phẩm có giá trị kinh tế cao, nên nhìn chung, đời sống của bà con ngày càng được cải thiện theo hướng tích cực”.
 |
Một góc vùng sâu Pró (Đơn Dương) |
Theo số liệu thống kê của UBND huyện Đơn Dương, hiện trên địa bàn huyện này có 5.391 hộ với 30.230 khẩu là người dân tộc thiểu số (DTTS) - chiếm 31% dân số toàn huyện (cả huyện Đơn Dương hiện có 23.183 hộ - 98.129 khẩu). Năm 1997, tỷ lệ hộ đói nghèo trong vùng đồng bào DTTS huyện Đơn Dương lên đến 60%; đến nay, nhờ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển vùng DTTS, tỷ lệ này hiện còn 9,09%.
Tập trung nguồn vốn đầu tư vùng DTTS
Cơ quan hữu trách của huyện Đơn Dương vừa đưa ra số liệu thống kê: Tổng vốn đầu tư phát triển KT-XH vùng DTTS huyện giai đoạn 2001 - 2006 là hơn 70 tỷ đồng; con số này của giai đoạn từ 2007 - 2013 đạt gần 161 tỷ đồng. Trong đó, Chương trình 135 giai đoạn II có tổng vốn đầu tư gần 38 tỷ đồng. Nguồn vốn này được tập trung đầu tư cho 3 xã đặc biệt khó khăn thuộc khu vực III (là Đạ Ròn, Ka Đơn và Pró) và 16 thôn đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực II (xã Tu Tra có 7 thôn, Ka Đô 5 thôn, Lạc Xuân 3 thôn và thị trấn Dran có 1 thôn). Cùng với Chương trình 135, Chương trình định canh định cư (theo Quyết định 33/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) cũng đã đầu tư cho vùng DTTS Đơn Dương từ 2007 đến nay với số tiền gần 6,3 tỷ đồng. Trong đó, vốn đầu tư phát triển chiếm 4,5 tỷ đồng (tập trung xây dựng đường giao thông nông thôn, trường học...); còn lại là vốn sự nghiệp định canh định cư (gần 1,7 tỷ đồng) được sử dụng vào việc hỗ trợ đời sống, sản xuất và ổn định định canh định cư cho 113 hộ. Ngoài ra, từ nguồn vốn 134 và 167 khoảng 16 tỷ đồng, trong những năm qua, Đơn Dương đã đầu tư vào vùng DTTS của huyện để xây dựng 15 giếng khoan, 850 giếng đào, 150 bể chứa nước, mở rộng 2 hệ thống nước sinh hoạt (phục vụ khoảng 1.500 hộ), khai hoang 58ha đất (cấp cho 174 hộ), hỗ trợ bò cho 20 hộ, xóa nhà tạm bợ cho 980 hộ...
Ngoài ra, còn có thể kể ra đây một vài nguồn vốn khác đã đầu tư cho vùng đồng bào DTTS huyện Đơn Dương trong 5 năm qua: Chương trình hàng chính sách miền núi trên 17 tỷ đồng, Chương trình tín dụng ưu đãi cho gần 5.000 lượt hộ vay hơn 41 tỷ đồng, Chương trình 30a gần 17 tỷ đồng, Chương trình nông thôn mới hơn 23 tỷ đồng, Dự án điện Tây Nguyên 18,5 tỷ đồng, Chương trình thủy lợi vừa và nhỏ 35,1 tỷ đồng, Chương trình khuyến nông - khuyến lâm hơn 2 tỷ đồng...
Hạ tầng nông thôn vùng DTTS phát triển
Trên lĩnh vực giao thông, theo số liệu của UBND huyện Đơn Dương, tổng chiều dài đường giao thông toàn huyện có gần 532km với tỷ lệ 20,02% đường nhựa và 79,98% đường đá cấp phối; trong đó, đường liên xã và liên thôn chiếm 445km. Đến nay, về cơ bản, Đơn Dương đã hoàn thành mạng lưới giao thông từ huyện đến xã và liên xã với 10/10 xã và thị trấn có đường nhựa kiên cố đến khu vực trung tâm (xã, thị trấn); đường liên thôn và liên xã đạt 2,13% là đường nhựa, và còn lại (97,87%) là đường đá cấp phối. Cùng đó, mạng lưới điện của Đơn Dương đến nay cũng đã có bước phát triển đáng ghi nhận: 100% xã, thôn có điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ dùng điện ở nông thôn đạt trên 95%; riêng tỷ lệ hộ dùng điện trong vùng đồng bào DTTS đạt trên 90%. Về thủy lợi, riêng đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số của huyện Đơn Dương trong những năm qua, điều đáng ghi nhận là từ nhiều nguồn vốn, huyện đã được đầu tư xây dựng 16 công trình thủy lợi vừa và nhỏ để tưới cho 854ha đất sản xuất nông nghiệp của bà con. Nhờ đó, tính đến nay, tổng diện tích đất canh tác nông nghiệp của huyện Đơn Dương được tưới nước là 7.600ha - bằng 43% tổng diện tích đất nông nghiệp của toàn huyện.
Trên lĩnh vực giáo dục ở Đơn Dương, điều kiện cơ sở vật chất cũng đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là cơ sở vật chất giáo dục vùng đồng bào DTTS. Đến nay, Đơn Dương đạt tỷ lệ 100% xã có trường tiểu học và trung học cơ sở, các thôn đều có lớp mẫu giáo; riêng với Trường Phổ thông dân tộc nội trú huyện Đơn Dương hiện có 8 lớp. Ngoài ra, với Đơn Dương trong việc phát triển vùng DTTS, một vài thành quả trên các lĩnh vực khác còn có thể kể đến như: Phòng khám đa khoa khu vực Dran được xây dựng với quy mô 20 giường bệnh, phòng khám đa khoa khu vực xã Ka Đô có quy mô 10 giường bệnh... Hệ thống chợ được xây dựng kiên cố gắn với các đầu mối trung tâm - 6/10 xã và thị trấn của huyện Đơn Dương đã có chợ được xây dựng kiên cố. Hệ thống thông tin liên lạc đã đến tận thôn, buôn; 100% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; 100% xã vùng III có trạm truyền thanh không dây; 87% thôn có loa truyền thanh; 100% xã có trạm bưu điện và 100% điểm bưu điện văn hóa xã đều được trang bị máy tính; và toàn huyện Đơn Dương hiện có 29/35 thôn, buôn vùng đồng bào DTTS có nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, buôn.
Nhờ thực hiện tốt chính sách phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS nên tỷ lệ hộ đói nghèo là người DTTS huyện Đơn Dương đã giảm từ 60% năm 1997 xuống còn 9,09% hiện nay. Theo Phó Chủ tịch UBND huyện Đơn Dương Lê Hữu Túc thì “Phát triển toàn diện chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội và an ninh quốc phòng ở vùng đồng bào DTTS, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo đào tạo, bố trí và sử dụng có hiệu quả cán bộ người DTTS tại chỗ; gìn giữ và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc” là một trong những bài học và kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn của việc quản lý Nhà nước về công tác dân tộc ở Đơn Dương trong những năm qua.
Khắc Dũng