Níu hồn trà Cầu Đất

03:05, 26/05/2013

Trở lại vùng trà cổ Cầu Đất những ngày tháng Tư lịch sử, chúng tôi vẫn cảm nhận được không khí bình yên và hương thơm của những đồi chè xanh ngút ngàn có niên đại gần trăm năm tuổi. Người nữ Giám đốc Công ty cổ phần chè Cầu Đất giản dị đón chúng tôi trong trang phục áo bà ba...

Trở lại vùng trà cổ Cầu Đất những ngày tháng Tư lịch sử, chúng tôi vẫn cảm nhận được không khí bình yên và hương thơm của những đồi chè xanh ngút ngàn có niên đại gần trăm năm tuổi. Người nữ Giám đốc Công ty cổ phần chè Cầu Đất giản dị đón chúng tôi trong trang phục áo bà ba. Chị đang cần mẫn thử trà để chuẩn bị cho đợt xuất khẩu trà olong mới sang Đài Loan. Ở độ cao 1.650m so với mặt nước biển, khí hậu lạnh, sương mù quanh năm bao phủ đã ưu đãi cho cây trà ở Cầu Đất có vị ngon vượt trội so với nhiều loại trà ở vùng khác.

Cỗ máy sản xuất chè cổ nhất Việt Nam được Guinness công nhận
Cỗ máy sản xuất chè cổ nhất Việt Nam được Guinness công nhận


HUYỀN THOẠI TRÀ CẦU ĐẤT

Biết bao mối tình chớm nở, biết bao đôi uyên ương đã gắn bó với cây trà từ những năm đầu thành lập Sở Trà Cầu Đất (1927), để rồi sinh con đẻ cái, giờ đến đời cháu, chắt của những cô, chú công nhân ngày ấy vẫn bám trụ với cây trà để sinh tồn và làm giàu. Cây trà thật kỳ diệu, nó được ví như nhân chứng sống của vùng đất này để chứng kiến biết bao sự đổi thay, thăng trầm của đời người, đời trà. Không phải ngẫu nhiên mà người Pháp lại chọn nơi đây để trồng và xuất khẩu trà. Với yếu tố thổ nhưỡng, khí hậu đặc biệt mà thiên nhiên ban cho Đà Lạt đã làm nên hương vị chan chát, ngọt hậu của trà Cầu Đất, để rồi khi thưởng thức ẩm khách sẽ phải mua về dùng dài lâu. Cây trà Cầu Đất lên ngôi và trở thành hoàng kim vào những năm 30 - 54 trở về trước. Sản phẩm chè xanh, chè đen OTD đã đi vào tiềm thức và trở thành thức uống quen thuộc của người Pháp, người châu Âu suốt một thời kỳ dài. Đến giờ nhiều khách hàng vẫn liên hệ với công ty nhưng vì cỗ máy đã quá “già” nên không thể sản xuất theo công nghệ chè xanh, chè đen OTD, chị Nguyễn Ngọc Bích - Giám đốc Công ty cổ phần Chè Cầu Đất cho biết.

Để bắt kịp với thời đại, từ năm 2005, sau khi được cổ phần hoá, công ty đưa vào trồng thử nghiệm và phát triển thêm nhiều giống trà mới như trà Shan Tuyết, trà Olong Kim Tuyên, Olong Tứ Quý cho sản lượng một năm khoảng 10 tấn/ha, chủ yếu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang Đài Loan, Đông Âu, Apganixtan với giá 11USD/kg. Hàng năm công ty vẫn duy trì xuất khẩu trên 40 tấn trà olong. Hiện công ty vẫn còn giữ trên 45ha chè cổ trồng từ năm 1927, cho sản lượng thu hoạch 6 tấn/ha. Đặc biệt, với cỗ máy sản xuất chè cổ nhất Việt Nam được Guinness công nhận và trở thành minh chứng lịch sử cho du khách tới tham quan.

Ngồi bên ấm trà ngon với bạn hiền, trong không gian ấm áp, dù đơn sơ mái lá, chõng tre, hay sang trọng với sập ấm, nệm êm thì tình người, tình trà vẫn được thăng hoa. Công việc sẽ được trôi chảy, sự sáng tạo tăng lên, nó được ví như phương thuốc kỳ diệu mà từ thời cha ông ta đã truyền lại. Nhấp chén trà nồng đượm hương của trời đất, của lòng người giao cảm, giúp ta như quên đi những ưu tư phiền muộn của cuộc sống vốn quá nhiều trắc trở này.

ĐỂ TRÀ CẦU ĐẤT DẬY HƯƠNG

Khác hoàn toàn so với dòng trà xanh nguyên thuỷ của vùng Phìn Hồ, Đồng Văn, Suối Giàng, Tà Sùa, Tân Cương… hay trà hoa cúc, hoa sen, hoa mộc, hoa nhài, hoa bưởi của vùng B’Lao; trà Cầu Đất vẫn giữ được hương vị rất riêng, vị ngon ngọt tự nhiên của trà trồng trên vùng đất trà cổ sương mù bao phủ. Nếu như thành phố Bảo Lộc được coi là “thủ phủ” của trà Lâm Đồng thì Cầu Đất lại được coi là “cội nguồn” của trà, nơi khởi nguồn cây trà đầu tiên ở Lâm Đồng. Nếu ai sành uống trà thì mới cảm nhận được sự khác biệt tinh tế của trà Cầu Đất so với trà của nhiều vùng, miền khác, nhất là trà olong hiện nay đang cho năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế rất cao. Anh Nguyễn Hữu Phước (Đội trưởng Đội sản xuất số 2, Công ty CP Chè Cầu Đất) cho biết: chè Cầu Đất khi pha nước rất xanh, trong, vị ngon tự nhiên, nếu thưởng thức kỹ sẽ thấy mùi thơm của hoa và trái cây hoà quyện trong hương thơm của trà. Đấy là nét đặc biệt mà trà Cầu Đất được trời ban cho, người dân quê tôi đi xa mấy chục năm vẫn quay trở về uống trà Cầu Đất, mua trà Cầu Đất, có lẽ do bén rễ nên ghiền cái hương vị đặc trưng ấy mất rồi.

Từ bát chè xanh mộc mạc chốn thôn dã, người Tràng An thanh lịch đã kỳ công thổi vào trà nét hào hoa để đưa việc thưởng trà lên thành một thú chơi cầu kỳ, tao nhã, mang đậm nét văn hoá Việt. Nhiều quán trà ở Hà Nội đã trở thành điểm đến của du khách trong và ngoài nước. Không biết, trà Cầu Đất đã có tên trong những địa chỉ ẩm thực trà nổi tiếng ở Hà Nội, Sài Gòn hay chưa. Nhưng với bề dày hàng trăm năm qua đã được người Pháp biết đến, rồi nhiều thế hệ người Cầu Đất duy trì và sản xuất trà, lưu giữ trà thì có lẽ đã đến lúc “Trà Cầu Đất” cần được xây dựng và bảo hộ thương hiệu gấp rút để chính thức trở thành sàn phẩm hấp dẫn du khách.

NGUYỆT THU