
Mười chín giờ tối ngày 27/1/1973, tại khu vực núi Chúa thuộc miền Đông Nam bộ, nơi trú ngụ của một số tiểu đoàn quân giải phóng sôi động hẳn lên bởi vì mọi người được nghe bản tin của Đài phát thanh giải phóng rồi cả Đài TNVN đưa tin: Hiệp định Paris về Việt Nam đã được ký kết.
Mười chín giờ tối ngày 27/1/1973, tại khu vực núi Chúa thuộc miền Đông Nam bộ, nơi trú ngụ của một số tiểu đoàn quân giải phóng sôi động hẳn lên bởi vì mọi người được nghe bản tin của Đài phát thanh giải phóng rồi cả Đài TNVN đưa tin: Hiệp định Paris về Việt Nam đã được ký kết. Điều khoản quan trọng nhất là từ nay hai bên ngừng bắn cho đến khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam trong vòng ba tháng, hai bên sẽ trao trả tù binh, sau đó thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần là Chính phủ lâm thời cách mạng miền Nam Việt Nam, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và Liên minh các lực lượng dân chủ vì hòa bình, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
 |
Minh họa: P.Nhân |
Bài hát: “Việt Nam trên đường chúng ta đi”( nhạc Huy Du, lời Xuân Sách) được phát sóng hàng chục lần mỗi ngày làm quân dân nức lòng.
- Anh em ơi, các đồng chí ơi, sắp thống nhất rồi!
Cán bộ, chiến sỹ reo hò, niềm tin thắng lợi sắp thành sự thật! Đêm ấy, không ai ngủ được. Đám lính trẻ tụ tập ca hát. Những người lính già ngồi bên nhau ôn lại chặng đường 20 năm qua với những tự hào, gian khổ, mất mát…
… Nhưng, buổi chiều ngày 28/1, đại đội trưởng đại đội 1 tiểu đoàn 2 là Lê Dũng được mời lên tiểu đoàn họp bất thường. Buổi tối, anh tập hợp đội ngũ, phổ biến ý kiến chỉ đạo của cấp trên:
- Mỹ tuy rút hết, nhưng Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ của hắn rất ngoan cố, chúng không muốn thống nhất Tổ quốc. Thiệu gọi Mỹ là thằng đểu, đem con bỏ chợ, tuy nhiên, Thiệu sẽ đánh đến cùng, không chấp nhận Hiệp định Paris đã ký kết, trong đó có nội dung là sau khi hiệp định có hiệu lực, Thiệu và quân giải phóng không được nổ súng. Ai ở đâu, giữ nguyên vị trí đó. Nhưng Thiệu vẫn ra lệnh cho binh lính lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Do đó, toàn thể cán bộ, chiến sỹ quân giải phóng không được lơ là mất cảnh giác, luôn luôn giữ thế chủ động tấn công nếu quân giặc hành quân lấn chiếm.
* * *
Sau ngày 27/1/1973, Đài phát thanh giải phóng liên tục đưa tin việc Thiệu cho quân lấn chiếm vùng giải phóng. Chi khu quân sự Bình Tuy mà giặc đang chiếm đóng (gồm Bình Thuận và phần lớn Bà Rịa) là địa bàn rất quan trọng của cả ta và giặc. Ta phải giữ bằng được những phần đất đã giải phóng ở khu vực này, và, các đơn vị của Trung đoàn 33 hiện đang đóng quân rải rác, trong đó có đại đội 1 của Lê Dũng.
… Vào 14 giờ ngày 2/2/1973 nhằm ngày 30 tháng chạp 1972, một chàng trai cao lớn, gương mặt ưa nhìn đã xuống đại đội 1 gặp đại đội trưởng Lê Dũng.
Chàng trai là liên lạc viên của tiểu đoàn. Anh truyền đạt ý kiến của tiểu đoàn trưởng:
- Theo tin trinh sát của ta thì 19 giờ tối nay, 30 tháng chạp, giặc sẽ từ chi khu quân sự Bình Tuy tiến về núi Chúa, nơi đóng quân của Tiểu đoàn 2. Các đại đội còn 5 giờ đồng hồ để chuẩn bị.
Một cuộc họp chớp nhoáng tại hầm chỉ huy. Đại đội trưởng Dũng ra lệnh:
- Chúng ta có 6 khẩu B40 chống tăng nhưng chỉ còn 15 viên đạn. Tiểu đội 1 được phát 3 trái, còn lại, mỗi khẩu trong các tiểu đội 2 trái. Các chiến sỹ bám sát các bụi cây đước ở mặt ruộng nước chờ lệnh. B40 hãy nhớ, chờ tăng đến thật gần mới được bắn.
Mọi người im lặng khá lâu. Những người dự cuộc họp là các đảng viên, bí thư, phó bí thư đoàn thanh niên nhân dân cách mạng miền Nam, các tiểu đội phó, tiểu đội trưởng trở lên. Chưa ai có ý kiến gì thì một cánh tay giơ lên. Mọi người nhìn xem ai, thì ra là anh chàng liên lạc viên của tiểu đoàn. Anh chàng nói rõ ràng, rành mạch, cứ như người chỉ huy từng trải:
- Thưa đồng chí đại đội trưởng, thưa các đồng chí. Địa hình này thật bất lợi cho chúng ta khi tấn công, phòng thủ thì được, nhưng cũng không thể lâu. Thế này nhé, nơi chúng ta đóng quân là rừng thưa, đất thấp, chỉ có một con đường từ đây ra đường lớn, xung quanh là đồng nước ngập mặn với nhiều bụi cây đước thấp. Giặc cậy đông quân, chúng sẽ cho trực thăng liều đổ quân vào giữa đội hình chúng ta. Bộ binh của giặc sẽ bu theo xe tăng, đông như kiến độc. Ba đại đội của tiểu đoàn 1 chúng ta phải đương đấu với 1 trung đoàn bộ binh của chúng. Nếu theo đồng chí Dũng là chờ xe tăng đến gần mới nổ súng là không hợp lẽ, mà chúng ta phải tìm đường đến cạnh xe của chúng mà bắn. Tìm cách nào? Chúng ta phải luồn lách giữa mênh mông đồng nước mặn, lợi dụng các bụi đước làm lá chắn để cơ động đến gần xe. Điều này thì bộ binh của giặc không làm được. Chúng ta làm được. Vì vậy, chúng ta phải đánh xe tăng trước. Phải bắn cháy chiếc đầu tiên và cuối cùng. Ta khóa đầu, khóa đuôi chúng lại, những chiếc còn lại lùi cũng không được, tiến cũng không xong, bởi vì con đường đất ấy chỉ đủ cho 2 xe tránh nhau một cách vất vả. Nếu liều mạng rẽ xuống ruộng nước, cơ động rất chậm sẽ làm mồi cho B40 của ta. Mà xe tăng đã cháy hết thì bộ binh giặc chỉ còn là những chiếc bia thịt cho bộ binh của ta mà thôi. Đề nghị đồng chí triển khai ngay phương án này. Tôi có ý kiến hết.
Đại đội trưởng Dũng nhìn anh chàng liên lạc viên của tiểu đoàn như nhìn một vị khách lạ ở hành tinh khác đến, nhìn đến 1 phút rồi nói:
- Đồng chí mới vào chiến trường 3 tháng thôi nhé. Tôi đã ở vùng này 9 năm rồi. Việc đánh đấm không thuộc về đồng chí.
Anh chàng liên lạc nói luôn: Tôi cũng là người lính, cũng được cầm khẩu AK này, có nghĩa là cũng phải đánh giặc. Mong đồng chí triển khai các xạ thủ B40 ngay. Đi trước một bước là nắm thắng lợi lớn ngay từ đầu.
Dũng quát to: Đi ra ngoài kia. Nếu muốn xem chúng tớ đánh giặc thì xuống tiểu đội 1, nếu sợ thì lui về tuyến sau. Nghe rõ chưa?
Liên lạc viên vẫn nhẹ nhàng rằng đồng chí đừng nóng nảy như thế. Nóng nảy là hỏng việc đấy. Dũng đứng dậy nói to:
- Phương án đã quyết, tất cả về vị trí.
* * *
Không phải giặc đến vào 19 giờ tối như tin báo mà chúng đến vào lúc 17 giờ chiều. Mùa khô, 17 giờ chiều, trời còn sáng nhưng giặc đã cho máy bay thả pháo sáng khắp một vùng trời rộng lớn, có thể nói không ngoa là sáng như ban ngày trời trong nắng đẹp. Máy bay trực thăng như nhặng xanh vo ve trên đầu, chúng chuẩn bị đổ quân vào khu đất cao, nhưng ở đó, đại liên của ta bắn lên như roi quất, buộc chúng phải lên cao hơn. Cùng lúc là xe tăng, bộ binh tiến vào trên con đường độc đạo. Xe tăng chúng vừa đi vừa khạc đạn, bộ binh chúng vãi đạn AR15 như trấu, cây cối trong rừng gãy gập. Cứ bắn vào màu xanh, đối phương ở đó mà! Chúng nói với nhau như vậy. Trên trời thì có thêm mấy giọng con gái õng ẹo từ máy bay trực thăng vọng xuống, nghe rè rè như vịt hen: “Các cán binh cộng sản hãy đầu hàng, quân đội Việt Nam cộng hòa đã vây chặt rồi, đầu hàng đi, về thành phố với chúng em đi anh…”. Có chiến sỹ nào đó không kìm được, bật miệng: Về con c… bố mày đây. Bố sẽ cho chúng mày biết tay.
Các chiến sỹ B40 được lệnh của cấp trên, đều kiên nhẫn chờ xe tăng đến gần mới xiết cò. Anh chàng liên lạc viên đi cạnh chiến sỹ sử dụng B40 của tiểu đội 1, anh nói gì mà chiến sỹ đó đã cùng anh dầm mình dưới nước, lợi dụng những bụi đước, cơ động về phía xe tăng giặc. Cách chiếc đi đầu đội hình khoảng 50 m, chuẩn bị nâng súng, không ngờ đồng chí ấy trúng đạn. Liên lạc viên trườn trên mặt nước, nhanh như con rắn, anh đỡ khẩu B40, quàng AK sau lưng, rồi tiếp tục trườn đến. Cách chiếc xe tăng khoảng 30 m, anh nâng súng lên vai, xiết cò. Một khối lửa trùm lên chiếc xe. Mấy thằng giặc trong xe la hét rồi bật nắp xe nhảy ra ngoài. Quần áo của chúng đều bốc lửa. Đám bộ binh giặc chùn lại, ngơ ngác, cứ như Việt cộng từ bùn chui lên.
Rồi chiếc thứ 2 bốc cháy. Chàng liên lạc viên vẫn như con rắn trườn nhẹ nhàng trên mặt nước, anh chọn chiếc xe sau cùng. Và nó lại bốc cháy. Đó là chiếc thứ 3. Đạn B40 hết, nhưng những chiếc xe còn sống sót không biết quay chạy hướng nào. Có mấy thằng liều lĩnh cho xe xuống nước. Xe không thể cơ động vì lún bùn quá sâu, 16 chiếc xe tăng nằm phơi mình như những chiếc quan tài sống chờ đạn B40 của ta lao đến xé xác. Lúc này, có thêm một tiểu đoàn của ta đến tiếp viện. Giặc vẫn chống cự điên cuồng. Đại liên của chúng trên nóc xe tăng quét bừa bãi. Tuy nhiên, pháo sáng của chúng vô hình chung lại làm cho chúng ta nhìn rõ chúng hơn, khi từ các bụi cây đước, bộ binh ta trườn đến hạ những tên bắn đại liên trên nóc xe tăng. Đạn AK của ta, AR15 của giặc vẫn nổ chát chúa. Không gian khét lẹt, đông đặc mùi thuốc súng. Trận đánh kéo dài đến gần 12 giờ đêm. Bên đại đội 1: 2 đồng chí đại đội phó và chính trị viên trưởng đại đội, 9 trung đội trưởng đều hi sinh. Đại đội trưởng đại đội 2, đại đội 3 cũng vậy. Cả tiểu đoàn gần 100 chiến sỹ thương vong.
Đại đội trưởng Dũng bị thương khá nặng, được chuyển về tuyến sau. Còn anh chàng liên lạc viên, khi trận đánh sắp kết thúc, anh đã trúng một băng đạn AR15 của địch, khi anh quyết định trườn tới gần chiếc xe tăng để hạ thủ tên bắn đại liên. Lúc ấy, kim đồng hồ chỉ 23 giờ 30. Còn 30 phút nữa là tới giao thừa…
… Ba hôm sau, nhờ cấp dưới báo cáo, Lê Dũng mới biết người bắn cháy 3 xe tăng, hai chiếc đi đầu, một chiếc khóa đuôi là anh chàng liên lạc viên. Dũng thấy ân hận. Anh nghĩ đến anh chàng liên lạc viên cao to đẹp trai, cơ thể cân đối, có cái họ tên đặc con gái: Đào Ngọc Liễu. Nước da trắng hồng, vệt râu quai nón hai bên mờ mờ xanh, chắc cậu ta mới cạo, mà 2 tháng trước, lần đầu gặp anh chàng ở tiểu đoàn bộ, Dũng lại tưởng cán bộ cấp cao ở ngoài Bắc mới điều vào.
Trận đánh này, trận đánh đầu tiên của người lính liên lạc. Anh như một người lính đã dạn dày lửa khói. Anh đã ngã xuống vào đêm cuối năm, sắp đến giao thừa. Ngã xuống trước bình minh, anh và hàng vạn chàng trai trẻ chưa vợ con như anh ngã xuống để cho bình minh - mùa xuân của Tổ quốc bừng sáng mãi.
Truyện ký: NGUYỄN THANH HƯƠNG