Góp ý về một số nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

10:03, 10/03/2013

Ban hành Hiến pháp là một sự kiện trọng đại của một quốc gia. Trong quá trình xây dựng, sửa đổi, không những nội dung mà cả quy trình, thủ tục làm ra Hiến pháp cũng phải được coi trọng.

Ban hành Hiến pháp là một sự kiện trọng đại của một quốc gia. Trong quá trình xây dựng, sửa đổi, không những nội dung mà cả quy trình, thủ tục làm ra Hiến pháp cũng phải được coi trọng.

Hiến pháp là luật cơ bản, là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện cả hệ thống pháp luật của đất nước nên từ nội dung đến trình tự, thủ tục lập hiến đều rất đặc biệt. Nhưng Hiến pháp năm 1992 đã quy định cho Quốc hội - chỉ là một cơ quan đại biểu (dù là cơ quan đại biểu cao nhất), đại diện của nhân dân nhưng đã có cả quyền lập hiến của nhân dân: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp, việc sửa đổi Hiến pháp chỉ cần Quốc hội biểu quyết tán thành và Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp... nhân dân chỉ có quyền tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến về dự thảo Hiến pháp và có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Những quy định trên cho thấy nhân dân không những bị hạn chế về quyền lập hiến mà trình tự, thủ tục lập hiến cũng chưa thể hiện được chủ quyền nhân dân. Do vậy, trong quá trình xây dựng, sửa đổi không những phải coi trọng nội dung của Hiến pháp mà cả quy trình, thủ tục làm ra Hiến pháp cũng phải được coi trọng. Việc sửa đổi Hiến pháp Việt Nam lần này cần có sự thay đổi cả về nội dung và quy trình, thủ tục lập hiến theo hướng dân chủ, hiệu quả hơn để Nhà nước Việt Nam thực sự là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Về nội dung, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần phải khẳng định tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó có quyền lực nhà nước, nghĩa là, trong xã hội Việt Nam không có quyền lực của một tổ chức hay cá nhân nào cao hơn quyền lực nhân dân. Với tinh thần đó, chúng tôi có một số góp ý đối với bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau:

1. Đối với Điều 2

Điều 2 (sửa đổi bổ sung Điều 2) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Chúng tôi đề nghị sửa thành: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Sở dĩ chúng tôi đề nghị bỏ tập hợp từ “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” là vì:

Thứ nhất, đã quy định Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân rồi lại quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chúng tôi cho rằng như thế là lặp lại cùng một nội dung, chỉ là hai cách thể hiện khác nhau. Bởi: “Nhà nước của nhân dân” được lý giải là tất cả quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, thuộc về nhân dân, các cơ quan nhà nước nhận quyền từ nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước… Vì thế, việc quy định thêm: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” là không cần thiết;

Thứ hai, đã nói Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân rồi lại nhấn mạnh tính giai cấp của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp.

2. Đối với Điều 6

Điều 6 (sửa đổi, bổ sung Điều 6) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.

Chúng tôi đề nghị sửa thành: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước đại diện cho ý chí và nguyên vọng của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, hoạt động vì lợi ích của nhân dân”.

Chúng tôi đề nghị thay tập hợp từ “thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” bằng tập hợp từ: “thông qua các cơ quan nhà nước” là vì: Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều là cơ quan nhà nước, đều nhận và thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, chúng chỉ khác nhau ở cách thức thành lập, nhiệm vụ và quyền hạn. Do vậy, việc phân biệt Quốc hội, Hội đồng nhân dân với các cơ quan khác trong việc thực hiện quyền lực nhà nước như trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là không cần thiết, đồng thời khi quy định phương thức thực hiện quyền lực nhà nước thì cũng nên quy định luôn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước nhân dân thì phù hợp hơn.

3. Đối với Điều 8

Điều 8 (sửa đổi, bổ sung Điều 8) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết:

1. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.

2. Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Chúng tôi đề nghị sửa thành:

1. Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.

2. Nền hành chính quốc gia, chế độ công vụ được tổ chức và hoàn thiện để phục vụ nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; chống tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp và pháp luật, phòng, chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Sở dĩ chúng tôi đề nghị sửa như vậy vì:

Thứ nhất, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chỉ nói về nguyên tắc tập trung dân chủ, còn các nguyên tắc khác đều được quy định với phương thức biểu hiện khác nên có nhiều người cho rằng Nhà nước chỉ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Để tránh hiểu nhầm, chúng tôi cho rằng tốt nhất là không nên quy định tên cụ thể của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Thứ hai, nội dung, tinh thần của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước đã được thể hiện thông qua nội dung các quy định của Hiến pháp và luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Thứ ba, các nguyên tắc này đôi khi cũng thay đổi theo thời gian và trong nhà nước pháp quyền thì nguyên tắc quan trọng nhất phải là nguyên tắc pháp chế theo tinh thần thượng tôn hiến pháp và luật.

Thứ tư, đòi hỏi các tổ chức và cá nhân không chỉ chấp hành Hiến pháp và pháp luật mà còn phải “thi hành”, “sử dụng” và thậm chí còn có thể “áp dụng” Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, nên dùng chữ “thực hiện” thì sẽ đầy đủ, chính xác và thống nhất hơn.

4. Đối với Điều 10

Điều 10 (sửa đổi, bổ sung Điều 10) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết:

“Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Chúng tôi đề nghị bỏ Điều 10 vì những lý do sau:

Thứ nhất, Hiến pháp quy định về tổ chức Công đoàn mà không quy định về các tổ chức khác thì không đầy đủ và không bao quát hết các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xã hội Việt Nam hiện nay. Còn nếu Hiến pháp quy định về tất cả những tổ chức quan trọng thì nội dung của Hiến pháp lại quá nhiều, quá cồng kềnh không đúng với tư cách là luật cơ bản.

Thứ hai, Công đoàn cũng là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên chỉ cần quy định về Mặt trân Tổ quốc là trong đó đã có Công đoàn và các tổ chức khác.

Thứ ba, Công đoàn và các tổ chức chính trị xã hội khác trong mối quan hệ với Nhà nước sẽ được quy định bằng những đạo luật thông thường mà không cần phải quy định trong Hiến pháp.

Xu hướng phát triển tất yếu là xã hội sẽ ngày càng dân chủ hơn, hệ thống chính trị cũng sẽ ngày càng dân chủ hơn. Trong quá trình dân chủ hóa đời sống Nhà nước và xã hội tất yếu sẽ xuất hiện và hình thành các tổ chức xã hội mới cùng tự nguyện tham gia vào các hoạt động vì những giá trị, mục tiêu, lợi ích chung của cộng đồng, xã hội… Các tổ chức thuộc xã hội sẽ một mặt hỗ trợ cho Nhà nước trong việc đưa ra và thực hiện các chính sách phát triển đất nước, mặt khác cũng có thể thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước, tư vấn cho các cơ quan nhà nước, can gián các cơ quan nhà nước, thậm chí phản đối các cơ quan nhà nước trong những trường hợp vì những lý do nào đó mà họ có những việc làm có thể gây tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng, của cả xã hội. Vì vậy, không nên thể chế hóa tất cả các tổ chức phi nhà nước vào Hiến pháp như hiện nay mà nên chỉ tập trung vào hai tổ chức quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều đó góp phần củng cố, nâng cao vị thế của các tổ chức phi nhà nước, làm cho hệ thống chính trị không bị nhà nước hóa, hành chính hóa trong quá trình vận hành. Đồng thời, cũng tránh được hiện tượng lấn át của Nhà nước đối với các tổ chức phi nhà nước, tạo ra sự cân bằng làm nền tảng cho sự phát triển xã hội bền vững.

5. Đối với Điều 75

Điều 75 (sửa đổi, bổ sung Điều 84) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết: Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn: “Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật… Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội”.

Chúng tôi đề nghị sửa lại là:

Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Thực hiện quyền lập hiến; ban hành luật;

2. Giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;…

Lý do chúng tôi đề nghị như vậy là:

- Bỏ quyền “làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp” của Quốc hội, thay bằng “thực hiện quyền lập hiến” là vì Hiến pháp là của nước nên quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân, Quốc hội chỉ thay mặt nhân dân thực hiện quyền lập hiến. Điều 74 đã quy định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, nhưng Điều 75 lại quy định Quốc hội làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp… là không thống nhất với nhau;

- Đổi chữ “làm luật” thành chữ “ban hành luật” là vì trong Hiến pháp nên thống nhất cùng dùng một thuật ngữ là tất cả các cơ quan nhà nước đều “ban hành” văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có văn bản luật. Nếu quy định Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn “làm luật và sửa đổi luật” thì tại sao không quy định như vậy đối với nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước cho thống nhất;

- Thay chữ “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp” thành “thực hiện quyền giám sát việc thực hiện Hiến pháp” là vì: Quốc hội chỉ có thể thực hiện quyền “giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (đã được quy định ở Điều 74) mà không thể giám sát tối cao việc thực hiện Hiến pháp. Bởi, Hiến pháp của nước nên quyền giám sát tối cao việc thực hiện Hiến pháp phải thuộc về nhân dân - chủ thể tối cao của đất nước;

- Thay chữ “tuân theo Hiến pháp” bằng “thực hiện Hiến pháp” là vì: Hiến pháp không chỉ được thực hiện dưới hình thức “tuân theo” mà còn được thực hiện dưới hình thức “thi hành”, “sử dụng” và thậm chí còn có thể “áp dụng Hiến pháp”. Do vậy, nên dùng chữ “thực hiện” thì sẽ đầy đủ, chính xác và thống nhất hơn.

6. Đối với Điều 124

Điều 124 (sửa đổi, bổ sung Điều 147) viết: Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp được quy định như sau:

1. Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành;

2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định;

3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp;

4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”.

Chúng tôi đề nghị sửa thành:

“1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội hoặc nhân dân quyết định;

2. Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp. Thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Quốc hội quyết định;

3. Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân và trình Quốc hội về dự thảo Hiến pháp;

4. Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành và có ít nhất quá nửa số tổng số cử tri cả nước biểu quyết tán thành thông qua việc trưng cầu ý dân”.

Chúng tôi đề nghị bổ sung thêm quyền đề nghị làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam và Mặt trận tổ quốc Việt Nam là vì: Hiến pháp của nước nên việc đề nghị ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải do cả các cơ quan nhà nước đề nghị và có thể do các tổ chức phi nhà nước (Đảng và Mặt trận) là những tổ chức có vai trò quan trọng trong xã hội đề nghị. Trên thực tế thì việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là sáng kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ XI.

Chúng tôi đề nghị bổ sung thêm quyền của nhân dân cùng với Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp là vì: Hiến pháp của nước nên quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Nội dung của Hiến pháp được xem là những thỏa thuận của nhân dân trong việc thiết lập và thực hiện quyền lực công trong tổ chức đời sống xã hội vì lợi ích chung của cả xã hội và của mỗi cá nhân. Thông qua Hiến pháp nhân dân thực hiện việc trao quyền và giới hạn quyền lực cho Nhà nước, cũng như cho các thiết chế khác trong xã hội; quy định cơ chế kiểm soát đối với việc thực hiện quyền lực công của các tổ chức và cá nhân; ghi nhận quyền con người, quy định quy chế pháp lý của công dân và của các cá nhân khác; quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... của đất nước. Vì vậy, việc làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp phải do nước (do nhân dân) quyết định. Đương nhiên, nhân dân không thể tự mình thực hiện được quyền lập hiến, không thể tự làm và sửa đổi Hiến pháp được mà phải thông qua những người đại diện cho nhân dân. Chẳng hạn, có thể thông qua cơ quan đại biểu (đại diện) cao nhất của nhân dân. Nhân dân thường chỉ giữ lại quyền quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và quyền phúc quyết đối với Dự thảo Hiến pháp thông qua việc trưng cầu ý dân. Do vậy:

- Việc ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp phải do cả Quốc hội và nhân dân quyết định. Trong trường hợp Quốc hội không quyết định được thì có thể trưng cầu ý dân về việc ban hành Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp.

- Việc thông qua Dự thảo Hiến pháp phải được Quốc hội tiến hành và được nhân dân phúc quyết thông qua thủ tục trưng cầu ý dân về Hiến pháp, để cử tri cả nước biểu thị ý chí của mình đối với nội dung bản Hiến pháp. Có như vậy, thì chủ quyền nhân dân mới được thể hiện đầy đủ, nhân dân mới thực sự là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân mới được sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và Hiến pháp mới thực sự là của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu quy định theo Điều 124 của Dự thảo thì “Dự thảo Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”, còn “việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”, nhưng trên thực tế Nhà nước Việt Nam chưa lần nào tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp. Với quy định trên, tính ràng buộc phải trưng cầu ý dân không có nên Quốc hội quyết ðịnh trýng cầu ý dân về Hiến pháp cũng được mà không trưng cầu cũng được, Dự thảo Hiến pháp vẫn được thông qua. Ở đây một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Dự thảo Hiến pháp vẫn không thừa nhận quyền lập hiến của nhân dân? Tại sao không quy định thủ tục nhân dân phúc quyết bắt buộc đối với Dự thảo Hiến pháp để khẳng định xem nội dung của Hiến pháp có thực sự thể hiện ý chí chung của nhân dân Việt Nam hay không? Do chưa có điều kiện hay do chưa tin tưởng vào sự sáng suốt của nhân dân và đến bao giờ chúng ta mới có thể thực hiện được việc nhân dân Việt Nam phúc quyết đối với Dự thảo Hiến pháp? mặc dù vấn đề này đã được đặt ra và được ghi nhận ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 (Điều 21 Hiến pháp 1946: Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia…; Điều 70 Hiến pháp 1946: Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây: a/ Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu... c/ Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết…). Trong khi trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, dân chủ ngày càng được mở rộng, thì chủ quyền nhân dân càng phải được thể hiện và được thực hiện đầy đủ hơn, nhân dân phải thực sự là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân không chỉ thực hiện quyền lực thông qua hình thức dân chủ đại diện mà còn có thể tự mình sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp.

7. Đối với Điều 123

Điều 123 (sửa đổi bổ sung Điều 146) Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 viết:

“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.

Chúng tôi đề nghị thay quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất” thành:

“Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý”.

Bởi, mục đích của Điều 123 chỉ cần khẳng định: Hiến pháp là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, không cần nhắc lại Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nữa. Với quy định như vậy, Hiến pháp không chỉ là luật cơ bản của nước mà đối với cả Nhà nước và đối với cả xã hội. Điều đó có nghĩa là, Hiến pháp là văn bản thể hiện một cách tập trung nhất ý chí, nguyện vọng và những lợi ích cơ bản của nhân dân Việt Nam trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống Nhà nước và xã hội. Vì vậy, Đảng (các tổ chức của Đảng và đảng viên), Nhà nước (các cơ quan, nhân viên nhà nước), các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp tức là tôn trọng và thực hiện ý chí của nhân dân. Những cơ quan nhà nước nếu không được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp thì có nghĩa là họ đã vượt quá những nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân giao cho, nếu họ ban hành các văn bản pháp luật trái Hiến pháp tức là trái với ý chí của nhân dân, không tuân theo ý chí của nhân dân. Văn kiện của các tổ chức (trừ văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam) cũng không được ban hành trái Hiến pháp.

Hiến pháp là luật cơ bản không chỉ có hiệu lực pháp lý cao nhất mà còn phải là một văn bản mẫu mực về kỹ thuật thể hiện, tồn tại trong một thời gian khá dài nên các quy định cần phải được thể hiện ngắn, gọn, khái quát, xúc tích, dễ hiểu, tránh việc quy định quá cụ thể, rườm rà và không thống nhất.

Tóm lại, nội dung và quy trình, thủ tục lập hiến là một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp. Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp đòi hỏi không chỉ tuân thủ những chuẩn mực về kỹ thuật lập hiến, mà điều quan trọng hơn, cần đặt lên trên hết là đề cao chủ quyền nhân dân, nguyên tắc pháp quyền để tinh thần Hiến pháp là tối thượng, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân hiện diện trong cả quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp và trong từng câu chữ của Hiến pháp. Điều này sẽ mang lại hiệu lực, sự thiêng liêng của Hiến pháp, tăng thêm tính hiệu quả cho Hiến pháp trong quá trình thực hiện.

(Theo Tạp chí Cộng sản)