Từ đại hội đến đại hội

04:01, 18/01/2016

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sẽ diễn ra từ ngày 20-28/1/2016. Đây là một sự kiện trọng đại, đánh dấu mốc phát triển mới trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Từ số báo này, Báo Lâm Đồng xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc những cột mốc quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Đảng qua mục Từ đại hội đến đại hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sẽ diễn ra từ ngày 20-28/1/2016. Đây là một sự kiện trọng đại, đánh dấu mốc phát triển mới trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Từ số báo này, Báo Lâm Đồng xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc những cột mốc quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Đảng qua mục Từ đại hội đến đại hội.
 
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 3-7/2/1930 tại Cửu Long (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra đường lối giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH của Cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng là đồng chí Trần Phú. Kể từ đó đến nay, Đảng ta đã trải qua 11 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 
1. Đại hội I:
 
Diễn ra từ ngày 27-31/3/1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) do đồng chí Hà Huy Tập chủ trì. Đại hội có 13 đại biểu đại diện cho các tổ chức cơ sở Đảng trong nước và ngoài nước. Đại hội đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Đến tháng 10/1936, TƯ Đảng được tổ chức lại, đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư; tháng 3/1938 BCH TƯ Đảng họp Hội nghị toàn thể, bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư; tháng 11/1940, Hội Nghị TƯ 7, đồng chí Trường Chinh được phân công làm quyền Tổng Bí thư; tại Hội nghị TƯ 8 (5/1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
 
2. Đại hội II
 
Diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang, có 158 đại biểu chính thức, thay mặt cho hơn 73 vạn đảng viên. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH” của đồng chí Trường Chinh; Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã phát triển đường lối kháng chiến và đề ra những chính sách cụ thể để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị những tiền đề đi lên CNXH sau khi kháng chiến thành công. Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam và ra hoạt động công khai. Đại hội bầu ra BCH TƯ gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. BCH TƯ đã bầu Bộ Chính trị có 7 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng; đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
 
3. Đại hội III
 
Diễn ra từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội, có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng; quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở miền Bắc và đường lối cách mạng miền Nam nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội bầu ra BCHTƯ gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. BCHTƯ đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng.
 
4. Đại hội IV
 
Diễn ra từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội, có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội; đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, gồm: Đường lối chung cách mạng XHCN và Đường lối xây dựng kinh tế trong thời kì quá độ; thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên CNXH. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 101 ủy viên chính thức. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
 
5. Đại hội V
 
Diễn ra từ ngày 27-31/3/1982 tại Hà Nội, có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80; Báo cáo về xây dựng Đảng. Đại hội xác định nhiệm vụ của Đảng là xây dựng thành công CNXH, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đại hội V đã đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng, tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế, nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 116 ủy viên chính thức, 36 ủy viên dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết; Ban Bí thư gồm 10 ủy viên. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại giữ chức vụ Tổng Bí thư.
 
6. Đại hội VI
 
Diễn ra từ ngày 15-18/12/1986 tại Hà Nội, có 1.129 đại biểu tham dự, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước. Tinh thần của Đại hội là “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội đề xướng và lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới; xác định mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ bao trùm là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo. Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên CNXH và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cuộc cách mạng Việt Nam. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức, 1 dự khuyết; Ban Bí thư gồm 13 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư.
 
7. Đại hội VII
 
Diễn ra từ ngày 24-27/6/1991 tại Hà Nội, có 1.176 đại biểu thay mặt cho trên 2 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội VII là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết”. Đại hội thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo chính trị; Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng. Đại hội khẳng định quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đại hội bầu ra BCH TƯ gồm 146 ủy viên; BCH TƯ bầu Bộ chính trị gồm 13 ủy viên, Ban bí thư gồm 9 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đc Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách làm cố vấn BCH TƯ.
 
8. Đại Hội VIII
 
Diễn ra từ ngày 28/6-1/7/1996 tại Hà Nội, có 1198 đại biểu thay mặt cho 2.130.000 đảng viên trong cả nước. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1996-2000); Điều lệ Đảng (sửa đổi, bổ sung). Đại hội đưa ra mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta; quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 170 ủy viên; BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 19 ủy viên. Đồng Đỗ Mười tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công tiếp tục làm cố vấn BCH TƯ. Tại Hội  nghị TƯ lần thứ 4 (12/1997), đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu giữ chức Tổng Bí thư thay Đồng chí Đỗ Mười. 
 
9. Đại hội IX
 
Diễn ra từ ngày 19 - 22/4/2001 tại Hà Nội, có 1.168 đại biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong cả nước tham dự. Chủ đề của Đại hội là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc VN XHCN”. Đại hội thông qua Báo cáo chính trị; Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001-2010; Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển KT-XH 2001-2005; Báo cáo về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; Báo cáo kiểm điểm của BCH TƯ khóa VIII, Báo cáo tình hình Nghị quyết TƯ 6 (lần 2). Đại hội IX là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới; có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 150 ủy viên. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị 15 ủy viên; Ban Bí thư gồm 9 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.
 
10. Đại hội X:
 
Diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội, có 1.176 đại biểu thay mặt cho 3,1 triệu đảng viên trong cả nước tham dự. Chủ đề của ĐH: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
 
Đại hội có nhiệm vụ đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng... Đại hội ra Nghị quyết cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân, đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng CSVN sau 20 năm đổi mới. Đại hội bầu BCH TƯ gồm 160 ủy viên chính thức, 21 dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên, Ban Bí thư gồm 8 ủy viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư.
 
11. Đại hội XI:
 
Diễn ra từ ngày 12 đến 19/1/2011 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội, với sự tham dự của 1.377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên sinh hoạt ở gần 54.000 tổ chức cơ sở Đảng. Chủ đề Đại hội: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội thông qua Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Đại hội đã bầu BCH TƯ gồm 200 đồng chí; trong đó, 175 Ủy viên Trung ương chính thức, 25 Ủy viên Trung ương dự khuyết. BCH TƯ bầu Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên, đến Hội nghị TƯ 7 bầu bổ sung 2 ủy viên; Ban Bí thư gồm 10 đồng chí đến Hội nghị TƯ 7 bầu bổ sung 1 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư.