Năm 2002, Lâm Đồng có 140 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Đến tháng 4/2013, tăng 7 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn, nâng tổng số lên 148 đơn vị; trong đó có 118 xã, 18 phường, 12 thị trấn. Như vậy, toàn tỉnh có 148 đảng bộ cơ sở với 20.174 đảng viên, chiếm tỷ lệ 60,33% tổng số đảng viên. Hiện toàn tỉnh có 1.565 thôn, tổ dân phố (tăng 973 thôn, tổ dân phố so với năm 2002)...
Năm 2002, Lâm Đồng có 140 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Đến tháng 4/2013, tăng 7 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn, nâng tổng số lên 148 đơn vị; trong đó có 118 xã, 18 phường, 12 thị trấn. Như vậy, toàn tỉnh có 148 đảng bộ cơ sở với 20.174 đảng viên, chiếm tỷ lệ 60,33% tổng số đảng viên. Hiện toàn tỉnh có 1.565 thôn, tổ dân phố (tăng 973 thôn, tổ dân phố so với năm 2002). Thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 của BCHTW Đảng (khoá IX) “về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lâm Đồng sớm xây dựng Kế hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW; chỉ đạo các cấp uỷ trực thuộc tổ chức học tập, quán triệt, thực hiện Nghị quyết. Qua học tập, quán triệt Nghị quyết đã tạo sự chuyển biến về nhận thức trong cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của hệ thống chính trị cơ sở; thấy rõ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; thấy rõ hơn trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thực hiện Nghị quyết. Sau đây là một vài ghi nhận.
ĐỒI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG
Từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương và của Tỉnh uỷ, các đảng bộ và chi bộ xã, phường, thị trấn đã nhận thức và xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở; trong đó, tổ chức Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Nhiều đảng bộ xã, phường, thị trấn quán triệt, thực hiện tốt quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh và giải quyết các vấn đề bức xúc ở cơ sở.
Các cấp uỷ cơ sở tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc của đảng uỷ, chi uỷ; xác định chức năng, nhiệm vụ của tập thể Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và trách nhiệm của từng cấp uỷ viên; xây dựng chương trình công tác tháng, quý của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và kế hoạch công tác hàng tuần; củng cố tổ chức bộ máy, kiện toàn các chức danh chuyên môn. Nhiều cấp uỷ bước đầu đổi mới nội dung, quy trình ra nghị quyết, xác định vấn đề trọng tâm, trọng điểm để lãnh đạo thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, xử lý đảng viên vi phạm; coi trọng việc quản lý và phân công công tác cho đảng viên. Từ khi thực hiện Chỉ thị 01-CT/TW của Ban Bí thư, Hướng dẫn số 05-HD/BCT (nay là Hướng dẫn số 09-HD/BCHTW của Ban Tổ chức Trung ương), nhiều cấp uỷ chấn chỉnh nề nếp sinh hoạt đảng, từng bước đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề, làm cho nội dung sinh hoạt phong phú, hiệu quả hơn. Qua khảo sát ở một số địa phương, hầu hết các chi bộ cơ bản sinh hoạt đúng định kỳ và đảng viên dự họp chi bộ hàng tháng đạt tỷ lệ cao. Các xã Lộc An (Bảo Lâm), Hà Lâm (Đạ Huoai), Đại Lào (TP. Bảo Lộc), thị trấn Đạ Tẻh (Đạ Tẻh) thực hiện thí điểm mô hình Bí thư đảng uỷ đồng thời là Chủ tịch UBND đạt hiệu quả. Các nghị quyết, chương trình hành động của cấp uỷ được triển khai, thực hiện kịp thời. Đồng chí Bí thư Đảng uỷ - Chủ tịch UBND đã thể hiện vai trò, vị trí là người đứng đầu của hai tổ chức; gương mẫu chấp hành, thực hiện tốt quy chế làm việc của cấp uỷ và của UBND, chưa để xảy ra tình trạng độc đoán, chuyên quyền.
Việc lãnh đạo xây dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn được đẩy mạnh và từng bước đi vào nề nếp. Qua tổng kết cho thấy, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhân dân đã thực hiện quyền dân chủ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều nơi thực hiện công khai các khoản thu, chi ngân sách của địa phương; nhất là việc thu, chi từ nguồn kinh phí do nhân dân đóng góp để dân biết, giám sát. Đồng thời, tổ chức cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình thông qua bầu cử trưởng thôn, tổ dân phố; tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở và các thôn, tổ dân phố; huy động được đông đảo nhân dân tham gia đóng góp xây dựng đường giao thông nông thôn, trường học, trạm xá, giúp nhau xoá đói giảm nghèo…
Điều đáng ghi nhận là công tác phát triển đảng viên được các cấp uỷ quan tâm chỉ đạo và đạt kết quả, nhất là ở các thôn, buôn, tổ dân phố, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đông đồng bào theo đạo, vùng có ít hoặc chưa có đảng viên. Số đảng viên mới kết nạp hàng năm đều tăng, tỷ lệ đảng viên là đoàn viên, nữ, người dân tộc thiểu số, người có đạo, giáo viên, trí thức ngày càng tăng. Qua đó, góp phần làm thay đổi cơ cấu đội ngũ đảng viên và từng bước thu hẹp số thôn, buôn, tổ dân phố, trường học chưa có tổ chức đảng, đảng viên. Từ năm 2002 đến nay, các xã, phường, thị trấn kết nạp 4.161 đảng viên mới; nâng 37 chi bộ cơ sở xã thành đảng bộ cơ sở; thành lập mới 672 chi bộ thôn, tổ dân phố; xoá được 92 thôn, tổ dân phố chưa có đảng viên.
Tuy đạt một số kết quả khả quan nhưng nhìn chung việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở cơ sở còn chậm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn yếu, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh; năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ cơ sở còn thấp, cơ cấu còn bất cập so với yêu cầu. Đến nay, toàn tỉnh còn 78 thôn, tổ dân phố chưa có tổ chức đảng; 1 thôn, 3 tổ dân phố chưa có đảng viên, chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết số 08-NQ/TU khoá VIII của Tỉnh uỷ là đến năm 2008, không còn thôn, tổ dân phố không có đảng viên; năm 2010 có 90% thôn, tổ dân phố có tổ chức đảng.
Kỳ sau: THỰC TRẠNG HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
LAN HỒ