(LĐ online) - Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, khi 5 cánh quân đồng loạt thần tốc tiến vào Sài Gòn, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thì trên Biển Đông, “cánh quân thứ 6” đã giải phóng Trường Sa, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
![]() |
Bộ đội Hải quân giải phóng đảo Song Tử Tây ngày 14/4/1975. Ảnh: Tư liệu |
• CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC KỊP THỜI VÀ SÁNG SUỐT
Vào cuối năm 1974, khi các mặt trận trên đất liền bước vào giai đoạn quyết định, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu nhận định tình hình địch suy yếu rõ rệt trên tất cả các hướng, bao gồm cả hướng biển. Thời điểm đó, quần đảo Trường Sa chỉ có 11 đảo có người sinh sống, trong đó quân đội Việt Nam Cộng hòa đang chiếm giữ 5 đảo chính gồm: Nam Yết, Trường Sa, Sơn Ca, Sinh Tồn và Song Tử Tây.
Đảo Nam Yết được chúng thiết lập làm Sở Chỉ huy trung tâm. Riêng đảo An Bang, chính quyền Sài Gòn mới chỉ cắm mốc chủ quyền, chưa đưa quân ra đóng giữ. Tổng quân số Việt Nam Cộng hoà tại các đảo vào khoảng 160 lính thuộc Tiểu đoàn 371 địa phương quân Phước Tuy, với trang bị vũ khí chủ yếu là súng bộ binh và hỏa lực nhẹ, cho thấy khả năng phòng thủ còn hạn chế.
Sau khi Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi ngày 24/3/1975, ngay hôm sau, Bộ Chính trị thông qua chủ trương: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo quân ngụy đang chiếm giữ”.
Ngày 30/3, Quân ủy Trung ương điện chỉ đạo Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 nghiên cứu thực hiện kế hoạch đánh chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa (khi ấy gọi là Nam Sa). Chủ trương này không chỉ là một quyết định chiến thuật, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương trong việc khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia.
Trong bối cảnh chiến sự trên đất liền vẫn còn nhiều cam go, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam với tầm nhìn chiến lược sâu rộng, đã sớm nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước. Trong Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, ông nhấn mạnh: “Vùng quần đảo Trường Sa, theo thăm dò, có triển vọng chứa đựng trữ lượng dầu lửa lớn. Với tầm nhìn chiến lược, có thể thấy biển và đại dương sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu của nhân loại kể từ thế kỷ XXI”.
Ngày 9/4/1975, các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Hoàng Hữu Thái, lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng, nhận điện khẩn của Quân ủy Trung ương yêu cầu nắm bắt tình hình và triển khai phương án hành động: “Có tin quân ngụy chuẩn bị rút khỏi đảo Nam Sa. Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng ta hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm”.
• “BÍ MẬT, BẤT NGỜ, THẦN TỐC” GIẢI PHÓNG ĐẢO SONG TỬ TÂY VÀ TIẾP QUẢN CÁC ĐẢO Ở TRƯỜNG SA
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, một lực lượng đặc nhiệm đặc biệt được thành lập. Đó là Đoàn C75 gồm gần 300 cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn đặc công 126 Hải quân, Tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5), Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 38, Sư đoàn 2 bộ binh), một đơn vị pháo binh và các tàu vận tải 673, 674, 675 của Đoàn 125 Hải quân.
Đúng 4 giờ sáng ngày 11/4/1975, các tàu vận tải bí mật rời quân cảng Đà Nẵng, ngụy trang thành tàu đánh cá nước ngoài nhằm tránh sự phát hiện của máy bay trinh sát địch. Sau gần 3 ngày hành trình trên biển, các tàu tiếp cận đảo Song Tử Tây – nơi được xác định là mục tiêu đầu tiên để mở màn chiến dịch.
Rạng sáng ngày 14/4, dưới sự chỉ huy của Trung tá Mai Năng, sau loạt pháo hiệu mở đầu bằng đạn B41, các mũi tiến công của Quân Giải phóng đồng loạt đổ bộ lên đảo. Chỉ sau 30 phút chiến đấu, quân ta làm chủ hoàn toàn Song Tử Tây, tiêu diệt 6 tên địch, bắt sống 33 tên còn lại, thu nhiều vũ khí và trang thiết bị thông tin.
Sau thất bại, quân đội Việt Nam Cộng hòa điều 2 tàu chiến từ Vũng Tàu ra phản kích nhưng do hoang mang trước đà tiến công của ta và tình hình chiến sự đang sụp đổ trên đất liền, chúng đã rút lui. Ta giữ vững Song Tử Tây, biến nơi đây thành bàn đạp quan trọng để tiếp tục tiến công các đảo còn lại.
Ngày 25/4, lực lượng đặc công đổ bộ lên đảo Sơn Ca, làm chủ hoàn toàn chỉ sau 30 phút. Địch tại các đảo còn lại dao động tinh thần, lệnh rút lui được ban ra trong tình thế hỗn loạn.
Trưa ngày 27/4, ta tiếp quản đảo Nam Yết. Hôm sau, đảo Sinh Tồn được tiếp quản khi địch đã tháo chạy. Ngày 29/4/1975, đúng một ngày trước khi Sài Gòn được giải phóng, ta làm chủ đảo Trường Sa – đánh dấu chiến thắng trọn vẹn trong chiến dịch biển đảo đầu tiên của Quân Giải phóng.
Lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên tất cả các đảo vừa được giải phóng tại quần đảo Trường Sa. Đúng như dự báo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Quân ủy Trung ương, ngay trong ngày hôm đó, một số tàu nước ngoài đã xuất hiện, tiếp cận khu vực đảo. Tuy nhiên, khi chứng kiến lá cờ giải phóng hiên ngang bay phấp phới giữa biển trời Tổ quốc, các tàu này lập tức rút lui, từ bỏ ý đồ chiếm đóng - một phản ứng rõ rệt trước sự hiện diện chủ quyền đầy đủ và hợp pháp của Việt Nam.
Chiến thắng vang dội tại Trường Sa không chỉ góp phần hoàn thiện mục tiêu thống nhất lãnh thổ đất nước, mà còn tạo ra một dấu mốc pháp lý quan trọng, khẳng định chủ quyền thiêng liêng và không thể tranh cãi của Việt Nam tại Biển Đông. Thành công này là minh chứng sinh động cho tầm nhìn chiến lược sâu sắc của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương – những người, dù đang dồn sức cho chiến sự khốc liệt trên đất liền, vẫn không lơi lỏng cảnh giác trên mặt trận biển đảo.
Qua đó cũng cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bộ binh, đặc công, hậu cần... để hình thành nên một lực lượng tổng hợp, linh hoạt và hiệu quả, đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Chiến thắng tại Trường Sa mùa Xuân năm 1975 là kết tinh của tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất và sự mưu trí, sáng tạo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong điều kiện vô cùng gian khó, từ thiếu thốn thông tin, không quen địa hình, phương tiện thô sơ đến áp lực về thời gian, các chiến sĩ đã vận dụng linh hoạt phương châm “bí mật, bất ngờ, thần tốc, chắc thắng” để giành thắng lợi một cách gọn gàng, quyết đoán và đầy khí phách.
“Bao đời nay, qua nhiều thế hệ, ông cha ta đã đổ bao công sức, máu xương để giữ gìn và bảo vệ các vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày nay, biển đảo Việt Nam, là bộ phận không thể tách rời của quốc gia và dân tộc, đã được bảo vệ ổn định và vững chắc, trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Thành quả này là kết quả của truyền thống yêu nước từ bao đời nay, của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của sức mạnh toàn dân và của sự hy sinh to lớn của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân”- Nhận định của PGS.TS. Đại tá Dương Hồng Anh - Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương, việc thực thi chủ quyền biển đảo trong mùa Xuân Đại thắng 1975 chính là hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin