Về thăm dốc phố

06:08, 29/08/2020

(LĐ online) - Dẫu đã có nhiều người viết nhưng tôi vẫn muốn một lần bày tỏ tình yêu với dốc phố Đà Lạt. Tôi nghĩ, dù hay dở thì hãy cứ nói ra bởi sẽ vô cùng đau khổ nếu yêu mà chẳng thể giãi bày...

(LĐ online) - Dẫu đã có nhiều người viết nhưng tôi vẫn muốn một lần bày tỏ tình yêu với dốc phố Đà Lạt. Tôi nghĩ, dù hay dở thì hãy cứ nói ra bởi sẽ vô cùng đau khổ nếu yêu mà chẳng thể giãi bày...
 
Dốc Nhà Làng nay đã được khoác áo nghệ thuật
Dốc Nhà Làng nay đã được khoác áo nghệ thuật. Ảnh tư liệu
 
Tôi vẫn nhớ giây phút đầu tiên chạm ngõ Đà Lạt của mình gần 20 năm trước. Khi chiếc xe khách bò lên đỉnh đèo Prenn, rồi xuôi theo đường Ba Tháng Tư, vòng qua Trần Hưng Đạo, Hùng Vương, xuống tận Chi Lăng, qua ô cửa xe, tôi chợt bắt gặp hình ảnh chốn quê nhà.
 
Quê tôi miền sơn cước, nơi “ngọn gió kéo mặt trời qua dốc, tiếng khèn Mèo làm suối cứ băn khoăn”. Từ bé đã quen với bước chân cao, hơi thở gấp và dáng người luôn ngả về phía trước để vượt dốc đến trường, theo cha lên rẫy, cùng lũ bạn lên núi chăn trâu, bẫy chim, hái củi. Tới Đà Lạt, bỗng bâng khuâng khi gặp lại hình bóng quê nhà - những con dốc. Tuy nhiên, nếu con dốc ở quê tôi thường vắng vẻ, hoang liêu, len lỏi giữa núi rừng, hiển lộ một đời sống nghèo khó thì ở thành phố này, mỗi con dốc dường như đều là kết quả của sự sắp đặt tài tình, đầy dụng ý, phập phồng hơi thở nhịp sống phố phường, mang vẻ đẹp mộc mạc nhưng không kém phần lãng mạn.
 
Năm tháng qua đi, dốc phố Đà Lạt đã trở thành một phần cuộc đời tôi. Ở đó, tôi đã sống, làm việc, yêu đương, hạnh phúc, đau khổ, thành công, thất bại… Cuộc sống như vòng xe quay mãi, những được mất giờ đây chẳng còn nhiều ý nghĩa, duy chỉ có tình yêu và suy tư mà tôi dành cho thành phố, dành cho những con dốc ngày thêm sâu nặng. 
 
Đôi khi tôi tự hỏi, người Đà Lạt sống kiếp tha hương, chẳng biết hình ảnh nào của thành phố này khiến họ hoài thương nhớ? Những mùa hoa bất tận, “đường quanh co quyện gốc thông già”, tiếng vó ngựa trên cung đường xa vắng, những sớm mai sương, những chiều mưa dầm, mùi khói ngo bốc lên từ căn bếp cũ, mùi hương hoa dại nhắc thầm mùa trôi, mùi khai nồng từ ruộng rau tàn rữa cuối vụ, mùi ngô nướng, sữa đậu nành, cà phê thơm lừng bay về phía chợ đêm…?
 
Làm sao biết được? Vì nỗi nhớ có khi như chiếc đinh cắm sâu vào tiềm thức, như bàn tay vô hình bóp nghẹt trái tim, đôi lúc mong manh như sợi tơ, mơ hồ như sương khói, tựa cơn gió vô loài chập chờn trong tâm trí. Nhưng, dẫu có muôn hình vạn trạng thế nào thì khi ngược về chân trời kỷ niệm, hẳn mỗi người đều có hình bóng con dốc nơi thành phố quê hương.
 
Làm sao không nhớ khi ở đây, con dốc và đời người luôn đồng hành, tình tự cùng nhau, vun đắp cho những địa tầng ký ức đô thị thêm dày nặng. Dù lớn hay bé, ngắn hay dài, thoai thoải hay dựng đứng, lãng mạn hay hiểm nguy, cũ kỹ hay mới mẻ thì những con dốc Đà Lạt đều gắn bó với đời người, mang sứ mệnh mạch máu giao thông, cất giữ kỷ niệm, một góc “tâm hồn” phố núi theo tháng ngày đã chất lên bao hoang phế, buồn vui.
 
Bây giờ, mời người hãy cùng tôi ghé thăm vài con dốc của Đà Lạt. Đầu tiên là dốc Đa Quý từ Quốc lộ 20 dẫn vào thôn Đa Quý (xã Xuân Thọ). Chỉ là con dốc nhỏ nhưng sẽ làm người đánh rơi nỗi nhớ. Vào mùa xuân, từ trên cao nhìn xuống, rặng mai anh đào hai bên đường nhuộm hồng rực rỡ. Xa xa, nhà cửa, vườn tược ẩn hiện thấp thoáng trên biển sương. Từ phía ấy, từng tốp trẻ em đạp xe đến trường, những nông dân chở rau, hoa ngược dốc ra chợ. Đó là khung cảnh mộng mơ điển hình của ngoại ô Đà Lạt mà ai cũng muốn một lần được chiêm ngắm và hòa vào không gian ấy.
 
Chia tay dốc Đa Quý, mời người về với con dốc trăm năm giữa lòng Đà Lạt. Dốc Nhà Làng như mạng nhện giăng giữa trời, nối các tuyến đường Trương Công Định với Ba Tháng Hai và Phan Đình Phùng. Ngày trước, con dốc chỉ là lối đi tắt, xuyên qua những vạt dã quỳ, cà phê mọc um tùm. Theo thời gian, dân cư ngày càng đông đúc, nhu cầu chỗ ở tăng lên, dã quỳ, cà phê biến mất, thay vào đó là nhà cửa san sát, xếp chồng lên nhau như bậc thang, lối đi tắt trở thành “mặt tiền” của hằng trăm ngôi nhà. 
 
Dẫu đã trăm năm nhưng chiều rộng của dốc vẫn như thủa nào, vẫn chỉ là lối đi hẹp, một nửa lát đá thành bậc dành cho người đi bộ, một nửa tráng xi măng cho người đi xe đạp, xe máy. Những viên đá lâu ngày nằm dưới bước chân người đã lõm xuống, mòn vẹt, tuồng như cũng già nua, mỏi mệt, đổ mồ hôi những lúc trở trời. Đi qua dốc, khách có cảm giác như lạc vào mê cung bởi nhiều ngã rẽ, khi lao xuống sâu, lúc ngược lên cao, có đoạn lại xuyên qua tầng hầm của vài ngôi nhà tối om. Đừng lo! Hãy cứ bước đi, thế nào ta cũng thoát khỏi cái mê cung ấy và gặp một con đường lớn. Hai bên dốc còn vài nếp nhà nhuốm màu thời gian; những bức tranh tường kể cho khách nghe vài câu chuyện Đà Lạt. Nơi ấy, ta sẽ gặp những người “muôn năm cũ” như chủ nhân cửa hiệu may Số 10 đã hơn 30 năm gắn bó với đường kim mũi chỉ, dù bây giờ khách đặt may quần áo chẳng có mấy người vì áo quần công nghiệp giá rẻ bán đầy trên phố nhưng người thợ may ấy vẫn đeo đẳng như muốn níu kéo cái nghề một thủa vàng son. Là gã nhạc sĩ nghèo sống một mình trên căn gác cũ lấy tiếng đàn làm phương tiện cứu rỗi cuộc đời. Là chàng kiến trúc sư trẻ người Ý vì quá yêu đã quyết định neo đời bên dốc, lấy vợ Việt Nam rồi mở quán bán piza, mì Ý. Nếu mỏi chân, xin mời ghé vào vài quán cóc bên đường thưởng thức đặc sản Đà Lạt. Nào cà phê, chè, bánh căn, bánh tráng nướng, ngô nướng, sữa đậu nành… rất ngon lành mà giá lại bình dân.
 
Đà Lạt còn nhiều con dốc gây thương nhớ như dốc Nhà Bò tựa chiếc cầu thang lộ thiên sừng sững, đã trở thành một phần bối cảnh bộ phim “Tháng năm rực rỡ”, dốc Số 7 cạnh đường Trần Hưng Đạo với hậu cảnh là núi Langbiang hùng vĩ, dốc Sông Lô cao đến ngợp thở nối đường Nguyễn Văn Trỗi với đường Phan Đình Phùng, dốc Trương Công Định nay đã thành “phố Tây”, dốc Đá in dấu tuổi trẻ và tình yêu của bao thế hệ sinh viên Đại học Đà Lạt, dốc Hải Thượng có nhà thương từ thời Pháp nay là Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng, nơi chứng kiến khoảnh khắc sinh tử của bao kiếp người Đà Lạt…
 
Không xây dựng trên địa hình bằng phẳng hoặc bình nguyên mênh mông, Đà Lạt mọc trên cao nguyên núi đồi xếp lớp, hun hút suối khe, bạt ngàn thung lũng. Những con dốc là giải pháp kết nối không gian, rút ngắn khoảng cách nhưng vẫn tôn trọng sự nguyên vẹn của địa hình, biểu hiện lối sống thuận theo tự nhiên, hòa vào thiên nhiên của người dân địa phương. Không chỉ đảm nhiệm vai trò mạch máu giao thông, những con dốc còn góp phần tạo nên cảnh quan độc đáo, là hiện vật lịch sử, là nỗi mệt nhọc, khổ ải, phiêu lưu nhưng cũng là sự sáng tạo, thú vui riêng của Đà Lạt. Là tình yêu, nỗi nhớ: “Phố sương mù, phố chưa lên đèn. Núi quanh đồi nhớ mùa trăng cũ. Từng dốc phố, quấn quanh núi đồi. Vẫn đi tìm ánh trăng lẻ loi… Mai tôi đã rời xa núi đồi. Sẽ mang theo hương đêm ngày cũ. Lời tôi hát đồi núi chập chùng. Có đôi khi nhớ thiên đường xưa”.
 
Làm sao không nhớ khi sinh ra, lớn lên, yêu đương và vĩnh biệt cuộc đời bên những con dốc? Làm sao không thương khi trở về, ghé thăm dốc phố Đà Lạt, tôi với người dường như thấy bình thản hơn trước những chênh vênh của cuộc đời?
 
VŨ ĐÌNH ĐÔNG