Đà Lạt năm 1908 (tiếp theo)

02:02, 19/02/2014

… Một làn khói đơn độc vươn lên trước mắt chúng tôi. Khi đến một con đèo nhỏ, chân trời bất chợt mở ra về hướng Đà Lạt, những ngọn đồi đang bốc cháy! Ngọn lửa vừa vượt qua con đường chúng tôi đi và chuyển dần về hướng phải, để lại đằng sau những đám cháy, một vùng đầy tro và thân gỗ đen. Không còn nguy hiểm nữa, tất cả đã bị đốt cháy.

[links()] … Một làn khói đơn độc vươn lên trước mắt chúng tôi. Khi đến một con đèo nhỏ, chân trời bất chợt mở ra về hướng Đà Lạt, những ngọn đồi đang bốc cháy! Ngọn lửa vừa vượt qua con đường chúng tôi đi và chuyển dần về hướng phải, để lại đằng sau những đám cháy, một vùng đầy tro và thân gỗ đen. Không còn nguy hiểm nữa, tất cả đã bị đốt cháy. Chúng tôi tiếp tục đi, lũ ngựa sợ sức nóng và mùi cây cỏ vì những bụi cây còn bốc cháy ven đường và hơi nóng vẫn còn thổi về hướng chúng tôi. Những người phục vụ đùa giỡn trước cảnh tượng kỳ lạ, mới mẻ này, bù lại cho những cánh đồng cỏ hoang vắng vừa trải qua. Tôi rất buồn nghĩ đến tất cả cỏ cây bị phá hoại, những cây non sắp vươn lên, đất đai giảm phì nhiêu mỗi khi ngọn lửa đi qua, động vật hoang dã bị thiêu rụi.
 
Sau những khu rừng dài hai hay ba cây số bị đốt thành tro, thân gỗ bốc cháy hay thành than, những đám cháy tiếp tục như những đảo nhỏ, đoàn người đi ngang qua một vùng hơi ẩm ướt đã ngăn chặn được tai họa và tìm lại được những đồi cỏ khô lượn sóng trên cao nguyên, xa xa là bóng dáng những đỉnh núi cao. Thỉnh thoảng đoàn người đi ngang qua những khu rừng thông màu xanh đậm giữa một đại dương cỏ khô vàng mênh mông. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy về phía trái một tấm bảng đóng trên một thân cây mang dòng chữ “Đường đi Djiring”. Sau đó vài cây số là Đà Lạt.
 
Đà Lạt! Tám hay mười mái nhà tranh của người Việt, một nhà sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách, một vòi nước, quảng trường chợ, một nhà bưu điện đơn sơ. Trên một ngọn đồi, sau hàng rào và giữa rặng thông xanh, vài căn nhà gạch của trung tâm hành chánh Đà Lạt, vì chế độ cai trị ở đây thật đặc biệt: có một hội đồng và cả một viên thị trưởng. Ông Champoudry - Thị trưởng Đà Lạt - nguyên Cố vấn Hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer đem sang đây và coi như người sáng lập Đà Lạt. Còn cư dân? Vài chục người Việt bị đày, vài khách người Âu đi công tác hay trắc địa, những người thợ săn hay lữ khách hiếm hoi cùng đoàn tùy tùng. Tài nguyên? Gần như không có gì hết; không có một khoản ngân sách đáng kể, không có một sự trợ giúp nào cả. Vốn là dược sĩ chuyên trách về vấn đề vệ sinh thành phố Paris, ông thích thú thiết kế hệ thống thoát nước trong thành phố tương lai dựng lên trên sa mạc này và chờ đợi...
 
Nguyên Cố vấn Hội đồng thành phố Paris bị thất cử được Doumer đem sang đây và coi như người sáng lập Đà Lạt.
 
Vốn là dược sĩ chuyên trách về vấn đề vệ sinh thành phố Paris, ông thích thú thiết kế hệ thống thoát nước trong thành phố tương lai dựng lên trên sa mạc này và chờ đợi...
 
Trung tâm hành chánh của Đà Lạt không được nới rộng thêm chút nào, vẫn thuộc về tỉnh Phan Rang. Để tránh những sự tranh chấp về quyền hạn, ông Canivey - Đại diện của Công sứ - sống với gia đình và thuộc hạ cách xa 3km, ngoài phạm vi của Champoudry. Nơi đây, ông đích thực là chủ nhân, cai quản một vùng Thượng rộng lớn, để lại cho đối thủ bất hạnh của ông vài chục người Việt thường ra vào trong một làng nhỏ chật hẹp mà họ không dám bước chân ra ngoài.
 
Một phái đoàn công chánh cũng hiện diện tạm thời ở Đà Lạt gồm có đại úy Lavit - một người thợ săn, các ông Barbot và Vissac. Cả ba người đều đi vắng, tôi không gặp được ai.
 
Tôi mang đến cho ông Canivey một lá thư gửi từ Phan Rang và ông giữ tôi ở lại ăn cơm tối. Ông là một người ở lâu trên xứ Thượng, đã làm hết trách nhiệm, lúc hòa bình lúc chiến tranh, cố gắng khai hóa người dân bản địa, thỉnh thoảng buộc phải đánh nhau, bị thương nhiều lần trong những cuộc đụng độ nguy hiểm với những mũi tên tẩm thuốc độc, những chiếc cung tự động cài trong đám cỏ phóng ra những mũi dao khi người lạ tìm lối đi, những hầm chông cài trên đường, những trò ma thuật không thể dự kiến được.
 
Không những là một người am hiểu miền Thượng, ông còn là một tay thiện xạ có lẽ một phần vì ham thích nhưng chắc chắn vì hoàn cảnh bắt buộc.
 
Ở đây không có thịt nào khác ngoài thịt rừng; về rau, chỉ có vài loại rau do người Thượng mang đến hay những người lính tự trồng trọt. Phải thường xuyên chống lại cọp và beo rất nhiều trong khắp vùng. Chuyện cọp là chuyện thường ngày, không phải là chuyện vui đùa bịa đặt mà là một thực tế đáng lo ngại. Chó, ngựa, nhiều người giúp việc, nhiều người bưu trạm đã bị cọp vồ; nhiều người Âu cũng cùng chung số phận.
 
Sau khi ăn tối ở đồn cảnh binh, ông Canivey cho bốn người cầm đuốc đưa tôi về vì đường đi rất nguy hiểm từ khi mặt trời lặn. Ông nói với tôi rằng tôi đã lầm khi đến đây một mình.
 
Những con chó rừng còn nguy hiểm hơn nữa. Đây là một loại chó cao gần bằng cái bàn, ốm nhom nhưng cực kỳ hung dữ. Chúng kéo đi hàng đàn và đuổi theo con mồi không biết mệt. Chúng tấn công cả cọp và thường chiến đấu đến cùng, dù phải bỏ thây vài mạng. Một lần, con chó của đại úy Lavit - một người thợ săn dũng cảm - bị một đàn chó rừng đuổi theo đến tận trại. Chúng chỉ chịu bỏ đi khi tất cả mọi người trong trại vội vàng chạy ra xua đuổi chúng. Tôi đã từng nghe nói về những con chó rừng ở Quy Nhơn, nhưng những con chó rừng ở đây còn dễ sợ hơn.
 
Tất nhiên, Đà Lạt thiếu những trò giải trí quyến rũ. Ở trong nhà gỗ và ngủ trên giường gỗ không hấp dẫn du khách chút nào! Không có cỏ cho ngựa và cám bán với giá cắt cổ.
 
Những người phục vụ không quen với khí hậu, tôi lo ngại có người bị bệnh sẽ rất phiền phức vì tôi phải rời Sài Gòn vào ngày 6 hay ngày 8 tháng 4. Tốt nhất là khởi hành vào sáng ngày mai.
 
(CÒN NỮA)